Điều hòa vận động: ứng dụng lâm sàng của phản xạ căng cơ

2021-09-24 11:04 PM

Trong thăm khám lâm sàng, chúng ta thường kiểm tra các phản xạ căng cơ nhằm mục đích xác định mức độ chi phối của não đến tủy sống. Các thăm khám này có thể thực hiện như sau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Khám phản xạ gối hoặc phản xạ ở các cơ khác có thể dùng để đánh giá phản xạ căng cơ

Phản xạ gối có thể được thực hiện đơn giản bằng cách gõ vào gân bánh chè bằng búa phản xạ, hành động này ngay lập tức làm kéo giãn cơ tứ đầu đùi và kích thích phản xạ căng cơ động, cơ tứ đầu co lại làm cẳng chân đá về phía trước. Phần trên của hình trình bày đồ thị cơ (myogram, trong trường hợp này thể hiện độ dài cơ) của cơ tứ đầu trong quá suốt quá trình thăm khám.

Đồ thị cơ được ghi lại từ cơ tứ đầu

Hình. Đồ thị cơ được ghi lại từ cơ tứ đầu trong khi kích thích giật đầu gối (trên) và từ cơ dạ dày trong khi co mắt cá chân (dưới).

Các phản xạ tương tự có thể thực hiện được ở hầu hết các cơ của cơ thể bằng cách gõ vào vùng gần hoặc bụng cơ. Hay nói cách khác, tất cả những gì cần làm để kích thích một phản xạ căng cơ động là kéo giãn suốt cơ.

Phản xạ cơ được sử dụng bởi các bác sĩ thần kinh để đánh giá độ hoạt hóa của tủy sống. Khi một lượng lớn các xung động hoạt hóa được truyền từ các trung tâm cao hơn đến tủy sống, phản xạ căng cơ xảy ra mạnh hơn. Ngược lại, khi các xung động hoạt hóa này giảm xuống hoặc biến mất, phản xạ căng cơ xảy ra yếu hơn hoặc không xảy ra. Điều này thường được ứng dụng trong việc xác định sự có mặt của liệt cứng, gây ra bởi tổn thương vùng vận động của não hoặc trong các bệnh có sự kích thích quá mức cấu tạo lưới ở thân não. Thông thường, một tổn thương lớn vùng vỏ não mà không tổn thương các trung tâm vận động thấp hơn (đặc biệt trong đột quỵ hoặc u não) sẽ gây ra hiện tượng tăng phản xạ căng cơ quá mức ở nửa người bên đối diện.

Phản xạ đa động- rung giật

Ở một số trường hợp, các cơ có thể giật nhiều lần sau 1 kích thích, gọi là phản xạ đa động, hoặc rung giật cơ. Điều này có thể giải thích thông qua ví dụ về rung giật gót như sau:

Nếu một người đứng bằng các mũi chân, sau đó đột ngột hạ gót chân xuống, kéo căng cơ bụng chân, xung động từ suốt cơ truyền đến tủy sống. Các xung động này kích thích phản xạ căng cơ, làm kéo giãn cơ, nâng gót chân trở lại. Sau vài phần nghìn giây, phản xạ căng cơ kết thúc và gót chân lại hạ xuống, lại làm giãn thoi cơ và kích thích một phản xạ căng cơ động, gót chân lại nhấc lên, sau đó lại hạ xuống và cứ thế lặp lại. Đây được gọi là phản xạ rung giật cơ.

Rung giật cơ chỉ xuất hiện khi phản xạ căng cơ vô cùng nhạy cảm bởi chịu các kích thích hoạt hóa từ não bộ. Ví dụ, ở các động vật đã phẫu thuật cắt bỏ não thì phản xạ căng cơ rất nhạy cảm, có thể xảy ra hiện tượng rung giật. Để xác định mức độ hoạt hóa của tủy sống, bác sĩ kiểm tra phản xạ rung giật bằng cách bất ngờ tác động làm giãn cơ bệnh nhân và duy trì lực tác động đó. Nếu rung giật xảy ra, chắc chắn là tủy sống đang được hoạt hóa mạnh.

Bài viết cùng chuyên mục

Sinh lý quá trình tạo máu

Trong suốt thời kỳ phôi thai, lần lượt túi noãn hoàng, gan, lách, tuyến ức, hạch bạch huyết và tuỷ xương tham gia hình thành các tế bào máu. Tuy nhiên, sau khi sinh quá trình tạo máu chỉ xảy ra ở tuỷ xương.

Kích thích thần kinh: chức năng đặc biệt của sợi nhánh

Nhiều khớp thần kinh kích thích và ức chế được hiển thị kích thích các đuôi của một tế bào thần kinh. Ở hai đuôi gai bên trái có tác dụng kích thích ở gần đầu mút.

Điều hòa glucose máu

Khi lượng đường trong máu tăng lên đến một nồng độ cao sau bữa ăn và insulin tiết ra cũng tăng lên, hai phần ba lượng đường hấp thu từ ruột là gần như ngay lập tức được lưu trữ dưới dạng glycogen trong gan.

Dẫn truyền synap: một số đặc điểm đặc biệt

Quá trình thông tin được truyền qua synap phải qua nhiều bước: đưa các bọc nhỏ xuống, hòa màng với màng của cúc tận cùng, chất truyền đạt giải phóng và khuếch tán trong khe synap, gắn với receptor ở màng sau synap, mở kênh ion gây khử cực màng.

Sinh lý điều hòa lưu lượng máu não

Lưu lượng máu não của một người trưởng thành trung bình là 50 đến 65 ml/100 gam nhu mô não mỗi phút. Với toàn bộ não là từ 750 đến 900 ml/ phút. Theo đó, não bộ chỉ chiếm 2% trọng lượng cơ thể nhưng nhận 15% cung lượng tim lúc nghỉ.

Sinh lý sinh dục nam giới

Mỗi người nam có 2 tinh hoàn, khi trưởng thành mỗi tinh hoàn có kích thước trung bình khoảng 4,5 x 2,5 cm, nặng khoảng 10 - 15 gram.

Phản xạ tủy sống gây co cứng cơ

Các xương bị gẫy gửi các xung động về cảm giác đau về tủy sống, gây ra co cơ xung quanh. Khi gây tê cục bộ hay gây tê toàn thân, kích thích đau biến mất, sự co thắt cũng biến mất.

Tế bào: đơn vị cấu trúc và chức năng của cơ thể

Tế bào chỉ có thể sống, phát triển và thực hiện các chức năng của nó trong môi trường tập trung của oxygen, glucose, các ion, amino acid, chất béo và các chất cần thiết khác trong một môi trường.

Sự bài tiết dịch tụy của tuyến tụy

Dịch tụy được bài tiết phần lớn là do đáp ứng với sự có mặt của dịch nhũ chấp tại phần trên của ruột non, và đặc tính của dịch tụy được xác định bởi mức độ có mặt của một số loại thức ăn trong nhũ chấp.

Các kích thích: sự nhận định cường độ

Nguyên lý Weber-Fechner chỉ chính xác về số lượng cho những cường độ cao hơn của những thí nghiệm cảm giác về thị giác, thính giác và da và kém phù hợp với đa số các loại thí nghiệm cảm giác khác.

Sự khuếch tán của khí qua màng hô hấp: sự trao đổi khí CO2 và O2

Tổng lượng máu có trong mao mạch phổi dạo động từ 60ml tới 140ml, ta thấy với một lượng nhỏ thể tích máu mao mạch mà tại mao mạch lại có tổng diện tích lớn nên thế sẽ rất dễ dàng cho sự trao đổi khí CO2 và O2.

Vitamin D và vai trò kiểm soát nồng độ canxi huyết

Vitamin D3 còn gọi là cholecalciferol là hợp chất quan trọng nhất, được hình thành trong da do kết quả nhờ chiếu xạ của 7-dehydrocholesterol, một chất có trên da, bởi tia cực tím từ mặt trời.

Các sợi thần kinh: dẫn truyền các loại tín hiệu khác nhau và phân loại

Các sợi thần kinh đến có kích thước trung bình vào khoảng 0.5 đến 20 micromet; kích thước lớn hơn, tốc độ dẫn truyền cũng lớn hơn. Giới hạn tốc độ dẫn truyền trong khoảng 0.5 đến 120 m/giây.

Tăng huyết áp: tăng thể tích dịch gây tăng cung lượng tim hoặc kháng lực ngoại vi

Bất cứ sự vượt quá lưu lượng máu chảy qua một mô, đều làm co mạch cục bộ và làm giảm lưu lượng máu về bình thường. Hiện tượng này được gọi là "tự điều hòa", điều đó có nghĩa đơn giản là sự điều hòa lưu lượng máu của chính mô đó.

Chức năng của vùng hải mã: vùng kéo dài của vỏ não

Hải mã và các cấu trúc nằm cạnh thùy thái dương và thùy đỉnh, được gọi là khối hải mã liên kết chủ yếu gián tiếp với nhiều phần của vỏ não cũng như các cấu trúc cơ bản của hệ limbic – thể hạnh nhân, vùng dưới đồi, vách trong suốt và thể vú.

Chức năng của vỏ não tiền đình - chẩm ở bán cầu não không ưu thế

Nghiên cứu tâm lí ở bệnh nhân có tổn thương bán cầu không ưu thế đã chỉ ra rằng bán cầu này có thể đặc biệt quan trọng đối với sự hiểu biết và nhận thức âm nhạc, kinh nghiệm thị giác phi ngôn ngữ.

Sóng khử cực và sóng tái cực: điện tâm đồ bình thường

ECG bình thường bao gồm một sóng P, một phức bộ QRS và một sóng T. Phức bộ QRS thường có, nhưng không phải luôn luôn, ba sóng riêng biệt: sóng Q, sóng R, và sóng S.

Vai trò của CO2 và Ion H+ điều hòa hô hấp: điều hòa hóa học trung tâm hô hấp

Nồng độ CO2 hay ion H+ quá cao trong máu tác động trực tiếp vào trung tâm hô hấp, làm tăng đáng kể lực mạnh của các tín hiệu vận động hít vào và thở ra tới các cơ hô hấp.

Acid béo với alpha Glycerophosphate để tạo thành Triglycerides

Quá trình tổng hợp triglycerides, chỉ có khoảng 15% năng lượng ban đầu trong đường bị mất đi dưới dạng tạo nhiệt, còn lại 85% được chuyển sang dạng dự trữ triglycerides.

Kiểm soát giải phóng năng lượng trong tế bào

Cơ chế xúc tác phản ứng hoá học của enzyme, trước hết là nhờ sự kết hợp lỏng lẻo với một trong các chất phản ứng, thay thế cầu nối bền chặt trong phân tử chất để có thể phản ứng được với các chất khác.

Đám rối thần kinh cơ ruột và đám rối thần kinh dưới niêm mạc

Đám rối thần kinh cơ ruột không hoàn toàn có tác dụng kích thích vì một số neuron của nó có tác dụng ức chế; tận cùng của các sợi đó tiết ra một chất ức chế dẫn truyền, có thể là “polypeptide hoạt mạch ruột”.

Hô hấp trong tập luyện thể thao

Có một mối quan hệ tuyến tính. Cả tiêu thụ oxy và tổng thông khí phổi tăng gấp khoảng 20 lần từ trạng thái nghỉ ngơi và cường độ tập luyện tối đa ở các vận động viên được tập luyện tốt.

Trao đổi khí ở phổi: vật lý của sự khuếch tán khí và phân áp khí

Áp suất được gây ra bởi tác động của phân tử chuyển động chống lại bề mặt, do đó, áp lực của khí tác động lên bề mặt của đường hô hấp và các phế nang cũng tỷ lệ thuận với lực tác động mà tất cả các phân tử khí ở bề mặt ngoài.

Trao đổi dịch qua màng mao mạch

Áp lực tái hấp thu làm cho khoảng 9/10 lượng dịch đã được lọc ra khỏi đầu mao động mạch được hấp thụ lại ở mao tĩnh mạch. Một phần mười còn lại chảy vào các mạch bạch huyết và trả về tuần hoàn chung.

Nhiệt cơ thể trong tập luyện thể thao

Mức tiêu thụ oxy bởi cơ thể có thể tăng lên đến 20 lần trong vận động viên tập luyện tốt và lượng nhiệt giải phóng trong cơ thể là gần như tỷ lệ thuận với mức tiêu thụ oxy, một lượng lớn nhiệt được đưa vào nội bộ mô của cơ thể.