- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Điều hòa vận động: ứng dụng lâm sàng của phản xạ căng cơ
Điều hòa vận động: ứng dụng lâm sàng của phản xạ căng cơ
Trong thăm khám lâm sàng, chúng ta thường kiểm tra các phản xạ căng cơ nhằm mục đích xác định mức độ chi phối của não đến tủy sống. Các thăm khám này có thể thực hiện như sau.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Khám phản xạ gối hoặc phản xạ ở các cơ khác có thể dùng để đánh giá phản xạ căng cơ
Phản xạ gối có thể được thực hiện đơn giản bằng cách gõ vào gân bánh chè bằng búa phản xạ, hành động này ngay lập tức làm kéo giãn cơ tứ đầu đùi và kích thích phản xạ căng cơ động, cơ tứ đầu co lại làm cẳng chân đá về phía trước. Phần trên của hình trình bày đồ thị cơ (myogram, trong trường hợp này thể hiện độ dài cơ) của cơ tứ đầu trong quá suốt quá trình thăm khám.

Hình. Đồ thị cơ được ghi lại từ cơ tứ đầu trong khi kích thích giật đầu gối (trên) và từ cơ dạ dày trong khi co mắt cá chân (dưới).
Các phản xạ tương tự có thể thực hiện được ở hầu hết các cơ của cơ thể bằng cách gõ vào vùng gần hoặc bụng cơ. Hay nói cách khác, tất cả những gì cần làm để kích thích một phản xạ căng cơ động là kéo giãn suốt cơ.
Phản xạ cơ được sử dụng bởi các bác sĩ thần kinh để đánh giá độ hoạt hóa của tủy sống. Khi một lượng lớn các xung động hoạt hóa được truyền từ các trung tâm cao hơn đến tủy sống, phản xạ căng cơ xảy ra mạnh hơn. Ngược lại, khi các xung động hoạt hóa này giảm xuống hoặc biến mất, phản xạ căng cơ xảy ra yếu hơn hoặc không xảy ra. Điều này thường được ứng dụng trong việc xác định sự có mặt của liệt cứng, gây ra bởi tổn thương vùng vận động của não hoặc trong các bệnh có sự kích thích quá mức cấu tạo lưới ở thân não. Thông thường, một tổn thương lớn vùng vỏ não mà không tổn thương các trung tâm vận động thấp hơn (đặc biệt trong đột quỵ hoặc u não) sẽ gây ra hiện tượng tăng phản xạ căng cơ quá mức ở nửa người bên đối diện.
Phản xạ đa động- rung giật
Ở một số trường hợp, các cơ có thể giật nhiều lần sau 1 kích thích, gọi là phản xạ đa động, hoặc rung giật cơ. Điều này có thể giải thích thông qua ví dụ về rung giật gót như sau:
Nếu một người đứng bằng các mũi chân, sau đó đột ngột hạ gót chân xuống, kéo căng cơ bụng chân, xung động từ suốt cơ truyền đến tủy sống. Các xung động này kích thích phản xạ căng cơ, làm kéo giãn cơ, nâng gót chân trở lại. Sau vài phần nghìn giây, phản xạ căng cơ kết thúc và gót chân lại hạ xuống, lại làm giãn thoi cơ và kích thích một phản xạ căng cơ động, gót chân lại nhấc lên, sau đó lại hạ xuống và cứ thế lặp lại. Đây được gọi là phản xạ rung giật cơ.
Rung giật cơ chỉ xuất hiện khi phản xạ căng cơ vô cùng nhạy cảm bởi chịu các kích thích hoạt hóa từ não bộ. Ví dụ, ở các động vật đã phẫu thuật cắt bỏ não thì phản xạ căng cơ rất nhạy cảm, có thể xảy ra hiện tượng rung giật. Để xác định mức độ hoạt hóa của tủy sống, bác sĩ kiểm tra phản xạ rung giật bằng cách bất ngờ tác động làm giãn cơ bệnh nhân và duy trì lực tác động đó. Nếu rung giật xảy ra, chắc chắn là tủy sống đang được hoạt hóa mạnh.
Bài viết cùng chuyên mục
Block nhĩ thất không hoàn toàn điện thế thay đổi: chặn đường truyền tín hiệu điện tim
Những nguyên nhân gây giảm dẫn truyền như thiếu máu cơ tim, viêm cơ tim, độc digitalis cũng có thể gây ra block thất không hoàn toàn biểu thị nên điện thế thay đổi.
Chức năng sinh lý nội tiết của thận
Erythropoietin có tác dụng kích thích tế bào đầu dòng sinh hồng cầu, erythroid stem cell, chuyển thành tiền nguyên hồng cầu,proerythroblast, và làm tăng sinh hồng cầu.
Trung tâm hô hấp: điều hòa chức năng hô hấp
Các trung tâm hô hấp bao gồm các nhóm tế bào thần kinh nằm song song hai bên ở hành tủy và cầu não của thân não. Nó được chia thành ba nhóm noron chính.
Cung lượng tim: tuần hoàn tĩnh mạch điều hòa cung lượng tim
Đề đánh giá ảnh hưởng của hệ thống tuần hoàn ngoại vi, trước hết, chúng tôi đã loại bỏ tim và phổi trên động vật thực nghiệm và thay bằng hệ thống hỗ trọ tim phổi nhân tạo.
Tổng hợp và bài tiết hormon vỏ thượng thận
Bài tiết aldosterone và cortisol được điều hòa bởi cơ chế riêng. Angiotensin II làm tăng số lượng aldosterone và gây ra sự nở to của lớp cầu, không ảnh hưởng 2 vùng khác.
Insulin là hormon liên quan đến sự thừa năng lượng
Carbohydrate dư thừa nếu không thể được dự trữ dưới dạng glycogen sẽ được chuyển thành chất béo dưới sự kích thích của insulin và được dự trữ ở mô mỡ.
Cơ chế kích thích cơ bản các tuyến tiêu hóa
Điều hòa sự bài tiết của các tuyến bằng các hormone. Tại dạ dày và ruột, một vài hormone tiêu hóa khác nhau giúp điều hòa thể tích và đặc tính của các dịch bài tiết.
Sinh lý cầm máu
Thành mạch bị thương tổn càng nhiều thì co mạch càng mạnh, sự co mạch tại chỗ có thể kéo dài nhiều phút đến vài giờ.
Sự vận chuyển CO2 trong máu và mô kẽ
Khi các tế bào sử dụng O2, hầu hết sẽ tạo ra PO2, và sự biến đổi này làm tăng PCO2 nội bào; vì PCO2 nội bào tăng cao nên CO2 khuếch tán từ tế bào vào các mao mạch và sau đó được vận chuyển trong máu đến phổi.
Corticosteroid: Mineralocorticoid, Glucocorticoids và Androgen
Vỏ thượng thận tiết 2 loại hormon chính là mineralocorticoid và glucocorticoid, thêm vào đó nó còn tiết 1 lượng nhỏ hormon sinh dục, đặc biệt hormon androgen, tác dụng giống hormon sinh dục testosteron.
Chuyển hóa ô xy và chất dinh dưỡng của não
Phần lớn sự chuyển hóa của não xảy ra ở các neuron mà không phải ở các tế bào thần kinh đệm. Nhu cầu chuyển hóa chính của các neuron là để bơm các ion qua màng, chủ yếu là vận chuyển natri, canxi và kali.
Các sợi thần kinh cảm giác hướng tâm từ ruột
Có nhiều sợi thần kinh cảm giác hướng tâm phân bố tại ruột. Một số sợi thần kinh có thân neuron nằm trong hệ thần kinh ruột và một số lại nằm trong hạch gai của tủy sống.
Chức năng sinh dục nam bất thường
Rối loạn chức năng cương dương, hay gọi là “bất lực”, đặc trưng bởi sự mất khả năng duy trì độ cương cứng của dương vật để thực hiện quá trình giao hợp phù hợp.
Vai trò của các nhân não và tiền đình: nâng đỡ cơ thể chống lại trọng lực
Các nhân lưới được chia làm 2 nhóm chính: các nhân lưới ở cầu não, nằm ở phía sau bên của cầu não và kéo dài tới hành não, các nhân lưới ở hành não, kéo dài suốt toàn bộ hành não, nằm ở cạnh đường giữa.
Các sợi thần kinh: dẫn truyền các loại tín hiệu khác nhau và phân loại
Các sợi thần kinh đến có kích thước trung bình vào khoảng 0.5 đến 20 micromet; kích thước lớn hơn, tốc độ dẫn truyền cũng lớn hơn. Giới hạn tốc độ dẫn truyền trong khoảng 0.5 đến 120 m/giây.
Điều hòa lưu lượng máu bằng những thay đổi trong mạch máu mô
Sự tái tạo vật chất của mạch xảy ra để đáp ứng với nhu cầu của mô. Sự tái cấu trúc này xảy ra nhanh trong vòng vài ngày ở những động vật non. Nó cũng xảy ra nhanh ở những mô mới lớn như mô sẹo, mô ung thư.
Triglycerides tạo năng lượng: hình thành Adenosine Triphosphate
Đầu tiên trong quá trình sử dụng triglycerides cung cấp năng lượng là thủy phân chúng tạo các acid béo và glycerol. Sau đó, cả acid béo và glycerol đều được vận chuyển trong máu tới các mô hoạt động.
Cấu tạo chung của hệ thần kinh: thần kinh trung ương và sự nhận cảm đáp ứng
Một đặc tính của hầu hết các sợi thần kinh là các tín hiệu dẫn truyền thường chỉ đi theo một hướng: từ sợi trục của sợi thần kinh phía trước tới sợi gai của sợi phía sau.
Xác định dung tích cặn chức năng, thể tích cặn, dung tích toàn phổi
Thiết bị đo dung tích với thể tích được làm đầy bởi không khí trộn với khí Heli. Trước khi thở từ thiết bị này, mỗi người được thở ra bình thường. Kết thúc thở ra, thể tích duy trì trong phổi bằng FRC.
Glucagon và tác dụng lên chuyển hóa glucose
Các tác dụng ấn tượng nhất của glucagon là khả năng gây thoái hóa glycogen trong gan, do đó làm tăng nồng độ glucose máu trong vòng vài phút.
Lưu lượng máu mạch vành bình thường
Lưu lượng mạch vành trái giảm trong thời kì tâm thu, khác với lại các mạch khác trong cơ thể. Bởi vì trong thời kì tâm thu, mạch vành bị nén lại mạnh mẽ tho co cơ tim của thất trái.
Dẫn truyền tín hiệu từ vỏ não đến tủy sống: nhân đỏ hoạt động như con đường phụ
Những sợi đỏ-tủy tận cùng (tạo synap) chủ yếu ở neuron trung gian ở vùng giữa của chất xám, cùng với các sợi vỏ tủy, nhưng một vài sợi đỏ tủy tận cùng trực tiếp ở neuron vận động (neuron alpha) ở sừng trước.
Đặc điểm sinh lý cấu tạo bộ máy tiêu hóa
Thiết đồ cắt ngang, ống tiêu hóa cấu tạo gồm 8 lớp từ trong ra ngoài: niêm mạc, cơ niêm, lớp dưới niêm mạc, đám rối Meissner, cơ vòng
Kiểm soát huyết áp động mạch: angiotensin II làm cho thận giữ muối và nước
Angiotensin II là một trong những chất kích thích bài tiết aldosterone mạnh bởi các tuyến thượng thận, như chúng ta sẽ thảo luận liên quan đến điều hòa thể dịch và liên quan đến chức năng tuyến thượng thận.
Trung tâm thần kinh điều khiển sự thèm ăn của cơ thể
Một số trung tâm thần kinh của vùng dưới đồi tham gia vào kiểm soát sự ăn, nhân bên của vùng hạ đồi hoạt động như trung tâm nuôi dưỡng, và kích thích vào vùng này ở động vật gây ra chứng ăn vô độ.
