Một số bệnh rối loạn xương

2018-07-09 01:17 PM

Điều trị bệnh lý nền đường ruột, NSAIDs có thể làm giảm các triệu chứng ở khớp nhưng có thể làm bùng phát bệnh đường ruột.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh khớp do bệnh đường ruột

Cả viêm khớp ngoại vi và khớp trục đều có thể kết hợp với bệnh viêm ruột (IBD) như viêm loét đại trang hoặc bệnh Crohn. Viêm khớp có thể xảy ra sau hoặc trước khi khởi phát các triệu chứng đường ruột. Viêm khớp ngoại vi là từng hồi và không đối xứng; nó thường ảnh hưởng đến khớp gối và cổ chân nhất. Các đợt tấn công thường giảm dần trong vòng vài tuần và đặc trưng được giải quyết một cách hoàn toàn mà không có tổn thương khớp tồn đọng. Viêm điểm bám gân (viêm ở điểm bám của gân và dây chằng vào xương) có thể xảy ra với biểu hiện “ngón xúc xích”, viêm gân Achilles, viêm cân gan chân. Sự tham gia của xương trục có thể biểu hiện như viêm đốt sống và/hoặc viêm khớp cùng-chậu (thường đối xứng). Kết quả xét nghiệm không có gì đặc biệt; yếu tố thấp (RF) âm tính; chỉ 30–70% có HLA-B27 dương tính; x-quang của các khớp ngoại vi thường bình thường; biểu hiện ở xương trục thường không phân biệt được với viêm cột sống dính khớp.

Điều trị bệnh lý nền đường ruột; NSAIDs có thể làm giảm các triệu chứng ở khớp nhưng có thể làm bùng phát bệnh đường ruột; Sulfasalazin có thể có hiệu quả với viêm khớp ngoại vi; điều trị bệnh Crohn với Infliximab hoặc Adalimumab giúp cải thiện viêm khớp.

Bệnh whipple

Được đặc trưng bởi viêm khớp đến 75% bệnh nhân trước sự xuất hiện của các triệu chứng khác. Thường một hoặc nhiều khớp, đối xứng, thoáng quan nhưng có thể trở thành mạn tính. Biểu hiện ở khớp đáp ứng với liệu pháp kháng sinh.

Bệnh khớp do bệnh thần kinh

Cũng được biết như khớp Charcot, đây là một bệnh khớp phá hủy nghiêm trọng xảy ra ở các khớp ít bị đau và vị trí có ý nghĩa; có thể xảy ra ở đái tháo đường do bệnh thận, bệnh Tabet, bệnh rỗng tủy sống, bệnh thoái hóa dạng bột, tổn thương tủy sống hoặc thần kinh ngoại biên. Sự phân bố phụ thuộc vào bệnh lý nền ở khớp. Tràn dịch khớp thường không do viêm nhưng có thể là xuất huyết. X-quang có thể cho thấy hoặc hình ảnh tiêu xương hoặc hình thành xương mới với trật khớp xương và vỡ từng mảnh.

Ổn định khớp; phẩu thuật gắn xương có thể cải thiện chức năng.

Viêm đa sụn tái phát

Là một rối loạn tự phát được đặc trưng bởi viêm tái phát của các cấu trúc sụn.

Các biểu hiện chủ yếu bao gồm tai mềm và biến dạng gãy mũi, viêm và xẹp khí quản và vòng sụn phế quản, viêm đa khớp không biến dạng từng hồi không đối xứng. Các đặc điểm khác có thể là viêm củng mạc, viêm kết mạc, viêm mống mắt, viêm giác mạc, trào ngược động mạch chủ, viêm cầu thận, và các đặc điểm khác của viêm mạch hệ thống. Khởi phát thường đột ngột, với sự xuất hiện của 1 - 2 vị trí viêm sụn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và được xác định bằng sinh thiết sụn tổn thương.

Glucocorticoid (Prednison 40 - 60 mg/ngày sau đó giảm liều) có thể ngăn chặn các biểu hiện cấp tính và làm giảm mức độ nghiêm trọng/tần suất tái phát. Thuốc gây độc tế bào nên được dành cho bệnh không đáp ứng hoặc bệnh nhân cần liều cao Glucocorticoid. Khi tắc nghẽn đường thở nghiêm trọng, cần phải mở khí quản.

Bệnh phì đại xương khớp

Hội chứng bao gồm hình thành màng xương mới, ngón tay-chân dùi trống, và viêm khớp. Thường gặp nhất khi kết hợp với ung thư biểu mô phổi nhưng cũng xảy ra với bệnh gan, phổi mạn tính; bệnh tim, phổi, gan bẩm sinh ở trẻ em; và các thể loại vô căn và di truyền. Các triệu chứng bao gồm đau nóng và nhức rõ rệt nhất ở ngọn chi. X-quang cho thấy dày màng xương với sự hình thành xương mới của đầu xa xương dài.

Xác định và điều trị các rối loạn liên quan; Aspirin, NSAIDs, các thuốc giảm đau khác, cắt dây phế vị, hoặc phong tỏa thần kinh dưới da có thể làm giảm triệu chứng.

Chứng đau cơ xơ hóa

Là một rối loạn thường gặp được đặc trưng bởi đau cơ xương mạn tính lan rộng, nhức, cứng khớp, dị cảm, rối loạn giấc ngủ, và dễ dàng mệt mỏi cùng với nhiều điểm dễ tổn thương. Gặp nhiều ở nữ nhiều hơn nam. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng; đánh giá cho thấy các điểm dễ tổn thương của mô mềm nhưng không có bất thường khi thăm khám, xét nghiệm hay x-quang.

Pregabalin, Duloxetine, và Milnacipran cho thấy tác dụng với chứng đau cơ xơ hóa. Benzodiazepin hoặc Tricyclic cho rối loạn giấc ngủ, điều trị tại chỗ (nhiệt, mát xa, tiêm vào khớp dễ tổn thương), NSAIDs.

Đau đa cơ do thấp (PMR)

Hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi nhức và cứng khớp buổi sáng ở đai vai, đai hông, hoặc cổ >1 tháng, tăng tốc độ máu lắng, và đáp ứng nhanh với liều thấp Prednison (15 mg hàng ngày). Hiếm khi xảy ra trước 50 tuổi; hay gặp ở nữ. Đau đa có do thấp có thể xảy ra trong sự kết hợp với viêm khớp tế bào khổng lồ (thái dương), bệnh mà cần điều trị với liều cao Prednison.

Đánh giá nên gồm một bệnh sử tỉ mỉ để đưa ra những triệu chứng gợi ý bệnh viêm khớp tế bào khổng lồ (Chương 170); tốc độ máu lắng; các xét nghiệm để loại trừ các bệnh khác gồm yếu tố thấp, khán thể kháng nhân, công thức máu, men CPK, điện di protein huyết thanh; kiểm tra chức năng gan, thận, tuyến giáp.

Bệnh nhân cải thiện nhanh với Prednison, 10–20 mg hàng ngày, nhưng có thể cần điều trị nhiều tháng đến nhiều năm.

Hoại tử xương (hoại tử vô mạch)

Gây nên bởi sự chết của các phần tử tế bào của xương, được cho là do suy giảm dòng máu cung cấp. Các kết hợp thường xuyên gồm có điều trị Glucocorticoid, bệnh mô liên kết, chấn thương, bệnh hồng cầu hình liềm, thuyên tắc, sử dung alcohol, và bệnh HIV. Các vị trí liên quan thường gặp là đầu xương đùi và xương cánh tay, lồi cầu xương đùi, đầu gần xương chày. Bệnh lao khớp háng cả hai bên chiếm >50% trường hợp. Biểu hiện lâm sàng thường là khởi phát dau khớp đột ngột. Những thay đổi sớm không thấy được khi chụp x-quang không chuẩn bị và thẩy rõ nhất trên MRI; giai đoạn muộn thấy vỡ xương (“dấu hiệu lưỡi liềm”), bề mặt khớp phẳng với mất khe khớp.

Hạn chế trọng lượng chưa rõ lợi ích; điều trị triệu chứng với NSAIDs.

Phẫu thuật tăng cường dòng máu có thể được xem xét ở giai đoạn sớm của bệnh nhưng hiệu quả còn tranh cãi; thay khớp có thể cần thiết ở giai đoạn muộn của bệnh khi đau không đáp ứng với các phương pháp khác.

Bài viết cùng chuyên mục

Nhiễm trùng hệ thần kinh kèm hoặc không kèm sốc nhiễm trùng

Sốt rét thể não nên được xem xét khẩn cấp trên bệnh nhân gần đây có đi đến vùng dịch tễ và biểu hiện lâm sàng sốt và các dấu hiệu thần kinh.

Phình động mạch chủ: nguyên lý nội khoa

Có thể thầm lặng về mặt lâm sàng, nhưng phình động mạch chủ ngực, có thể gây ra cơn đau sâu, lan tỏa, khó nuốt, khàn tiếng, ho ra máu, ho khan.

Viêm túi mật cấp: nguyên lý nội khoa

Phẫu thuật cắt có túi mật cấp trong phần lớn bệnh nhân nghi ngờ hoặc xác định có biến chứng. Trì hoãn phẫu thuật trong trường hợp phẫu thuật có nguy cơ cao hoặc chuẩn đoán nghi ngờ.

Bạch cầu cấp thể lympho/u lympho: nguyên lý nội khoa

Điều trị tích cực gắn với độc tính cao liên quan đến nền suy giảm miễn dịch. Glucocorticoid làm giảm tình trạng tăng canxi máu. Khối u có đáp ứng với điều trị nhưng thường trong thời gian ngắn.

Các khối u ruột non

Nội soi và sinh thiết hữu dụng nhất cho các khối u ở tá tràng và đoạn gần của hỗng tràng; phương pháp khác là chụp x quang có baryt là xét nghiệm chẩn đoán tốt nhất.

Globulin miễn dịch đơn dòng và bệnh thận

Chẩn đoán bệnh thận do trụ dựa vào phát hiện thấy chuỗi nhẹ trong huyết thanh và/hoặc nước tiểu, thường bằng điện di protein và immunofixation.

Khối u gan: nguyên lý nội khoa

Phẫu thuật cắt bỏ hoặc ghép gan là quan điểm điều trị nhưng hiếm khi thành công. Điều trị khối u bằng sóng cao tần có thể gây hồi quy các khối u nhỏ.

Mất thị lực cấp và nhìn đôi

Một điểm mù chỉ giới hạn ở một mắt được gây ra bởi tổn thương phía trước ảnh hưởng đến thần kinh thị giác hoặc nhãn cầu, phương pháp dùng đèn đưa qua đưa lại có thể cho thấy.

Ung thư tiền liệt tuyến: nguyên lý nội khoa

Với bệnh nhân đã đi căn xa, điều trị ức chế sản xuất androgen là 1 lựa chọn. Phẫu thuật cắt tinh hoàn có hiệu quả, nhưng hầu hết bệnh nhân thích dùng thuốc leuprolide.

Bệnh thoái hóa dạng bột ống thận: nguyên lý nội khoa

Bệnh nhân không thể toan hóa nước tiểu mặc dù nhiễm toan hệ thống; có khoảng trống anion, phản ánh một sự giảm bài tiết amoni.

Tăng nồng độ cholesterol đơn thuần

Hiếm gặp người có hàm lượng cholesterol HDL tăng rõ rệt cũng có thể làm tăng nồng độ cholesterol toàn phần huyết thanh.

Ung thư phổi: nguyên lý nội khoa

Khối u trung tâm nội phế quản gây ho, ho ra máu, khò khè, khó thở, viêm phổ. Tổn thương ngoại biên gây đau, ho, khó thở, triệu chứng của áp xe phổi bắt nguồn từ khối chiếm chỗ.

Những nguyên nhân sa sút trí tuệ

Bệnh Alzheimer là nguyên nhân chủ yếu của sa sút trí tuệ, ngoài ra còn có những nguyên nhân sa sút trí tuệ khác.

Mất ngôn ngữ: nguyên lý nội khoa

Mặc dù các lời nói nghe có vẻ đúng ngữ pháp, hài hòa và trôi chảy, nhưng hầu như là không hiểu được do lỗi về cách dùng từ, cấu trúc, thì và có các lỗi loạn dùng từ ngữ.

Viêm xoang mãn tính: nguyên lý nội khoa

Viêm xoang do nấm dị ứng, thấy ở những trường hợp có nhiều polyp mũi và hen, biểu hiện là viêm và dày đa xoang, rất nhiều bạch cầu ái toan trong dịch nhầy.

Rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học

Hội chứng giấc ngủ đến sớm là sự khởi phát ngủ sớm vào ban đêm và thức dậy sớm vào buổi sáng. Liệu pháp ánh sáng mạnh buổi tối trong vài giờ có thể hiệu quả.

Sốt: nguyên lý nội khoa

Điểm định nhiệt vùng dưới đồi tăng, gây co mạch ngoại biên, Bệnh nhân cảm thấy lạnh do máu chuyển về cơ quan nội tạng. Cơ chế của sinh nhiệt giúp tăng nhiệt độ cơ thể.

Ung thư da tế bào hắc tố: nguyên lý nội khoa

Temozolomide là thuốc uống liên quan tới dacarbazine có nhiều tác dụng. Nó có thể vào hệ thần kinh trung ương và được đánh giá với xạ trị cho di căn hệ thần kinh trung ương.

Nhiễm trùng huyết mà không có ổ nhiễm trùng rõ ràng

Bệnh Tularemia và bệnh dịch hạch có thể gây ra hôi chứng thương hàn hoặc nhiễm trùng huyết với tỷ lệ tử vong khoảng 30 phần trăm và nên được nghĩ đến khi có yếu tố dịch tễ.

Xuất huyết tiêu hoá: nguyên lý nội khoa

Hematocrit có thể không phản ánh đúng mức lượng máu mất vì sự cân bằng với dịch ngoại bào bị trì hoãn. Bạch cầu và tiểu cầu tăng nhẹ. Ure máu tăng thường gặp trong xuất huyết tiêu hoá trên.

Các rối loạn tương bào

M component có thể thấy ở các bệnh nhân u lympho khác, ung thư không phải lympho và các tình trạng không phải lympho như xơ gan, sarcoidosis.

Rối loạn chức năng hô hấp: nguyên lý nội khoa

Tốc độ thể tích và lưu lượng phổi được so sánh với giá trị bình thường của quần thể đánh giá theo tuổi, cân nặng, giới, và chủng tộc.

Bệnh sarcoid: nguyên lý chẩn đoán điều trị

Nguyên nhân của bệnh sarcoid là chưa biết, và bằng chứng hiện tại gợi ý rằng việc kích hoạt một đáp ứng viêm bởi một kháng nguyên không xác định.

Vàng da: nguyên lý nội khoa

Bilirubin là sản phẩm thoái giáng chủ yếu của hemoglobin được giải phóng từ hồng cầu già. Đầu tiên, nó gắn vào albumin, được vận chuyển vào gan, được liên hợp với một dạng chất tan trong nước.

Viêm mũi dị ứng: bệnh quá mẫn tức thì (typ I)

Viêm bề mặt niêm mạc mũi có thể cho phép các chất gây dị ứng thâm nhập vào sâu trong mô, nơi chúng liên kết với các tế bào mast quanh tiểu tĩnh mạch.