Ngộ độc Clostridium botulinum

2016-03-21 04:54 PM

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Mới ăn thức ăn là đồ hộp đóng tại nhà hoặc thức ăn hun khói hay có tiêm thuốc, và tìm thấy độc tố trong máu hoặc trong đồ ăn.

Bệnh đột ngột với các triệu chứng: nhìn đôi, khô miệng, khó nuốt, nói khó, yếu cơ tiến triển nhanh đến liệt hô hấp.

Giãn cố định đồng tử hai bên.

Nhận định chung

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn (thường do các typ A, B hoặc E) của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất. Thức ăn đóng hộp, xông khói hoặc đóng hộp chân không hay bị nhiễm nhất, đặc biệt là rau quả đóng hộp tại nhà, thịt xông khói và cá đóng hộp chân không, nhưng các thức ăn bán trong các cửa hàng lớn cũng có thể bị nhiễm, gây các vụ dịch lớn. Bệnh ở trẻ em và người tiêm chích ma tuý hơi khác là vi khuẩn xâm nhập vào ruột hoặc vào máu và sản xuất độc tố trong cơ thể. Độc tố botulinum cũng giống như độc tố uốn ván, là một men tiêu protein có kim loại là kẽm làm tiêu hủy các túi đựng các chất trung gian dần truyền thần kinh tại cáp khớp thần kinh (synap), ức chế giải phóng acetylcholin ở chỗ nôi thần kinh - cơ. Trên lâm sàng, tổn thương sớm tại hệ thần kinh sẽ dẫn đến liệt hô hấp. Tỷ lệ tử vong rất cao nếu không được điều trị.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Sau 12 - 36 giờ sau khi ăn phải độc tố, sẽ xuất hiện triệu chứng về thị giác, đặc biệt là nhìn đôi và liệt điều tiết. Những dấu hiệu đặc trưng của bệnh là sụp mi, liệt các dây thần kinh sọ, tổn thương các cơ ngoài của mắt và liệt cố định đồng tử hai bên. Cảm giác vẫn bình thường. Các biểu hiện khác là khô miệng, khó nuốt, khó nói, nôn và buồn nôn có thể gặp, nhất là khi có độc tố loại E. Thân nhiệt bình thường. Liệt cơ hô hấp dẫn tới tử vong nếu không được hô hấp nhân tạo.

Biểu hiện cận lâm sàng

Có thể tìm thấy độc tố trong thức ăn hoặc trong máu bằng cách tiêm truyền cho chuột nhắt, hoặc định lượng được bằng kháng huyết thanh đặc hiệu.

Chẩn đoán phân biệt

Các dấu hiệu liên quan thần kinh sọ não cần phân biệt với tổn thương cột sống - nền sọ, với biến thể C. Miller - Fisher của hội chứng Guillain - Barré, nhược cơ nặng, viêm màng não vùng đáy sọ, do vi khuẩn hoặc do bệnh ác tính. Khi buồn nôn hoặc nôn nặng, cần phân biệt với tắc ruột và các ngộ độc thức ăn khác.

Điều trị

Nếu nghi ngờ có độc tố botulium, thầy thuốc cần thông báo ngay cho cơ quan y tế địa phương hoặc trung tâm phòng chống bệnh để tham khảo ý kiến và xin kháng độc tố, đồng thời để họ giúp tìm độc tố trong máu và trong thức ăn còn lại cũng như trong phân.

Cần đặt nội khí quản và thở máy cho bệnh nhân suy hô hấp. Truyền dịch và nuôi dưỡng đường tĩnh mạch cho bệnh nhân không nuốt được. Có thể cố gắng loại bỏ độc tố còn lại trong ruột bằng các biện pháp thông thường. Giữ lại các thức ăn còn lại để gửi đi tìm độc tố. Những người cùng ăn thức ăn đó phải được nhập viện và theo dõi sát.

Bài viết cùng chuyên mục

Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm

Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.

Bệnh Hạ cam

Các biến chứng thường gặp là viêm quy đầu và viêm đầu dương vật. Cần chẩn đoán nốt loét hạ cam với các vết loét bệnh khác, đặc biệt là giang mai.

Rubeon: bệnh sởi Đức

Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.

Vãng khuẩn huyết do Salmonella

Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.

Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.

Nhiễm Parovirus

Việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng, nhưng có thể xác định bằng tăng nồng độ kháng thể kháng parvovirus loại IGM trong huyết thanh. Sốt tinh hồng nhiệt rất giống bệnh do parvovirus.

Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn

Trong trường hợp có tổn thương hệ thần kinh trung ương dịch não tủy cho thấy tăng áp lực, các tế bào lympho bất thường và protein.

Virus herpes typ 1 và 2

Các virus herpes typ 1 và 2 chủ yếu gây tổn thương ở vùng miệng tiếp đến là vùng sinh dục. Tỷ lệ huyết thanh dương tính của cả hai nhóm này tăng theo lửa tuổi, riêng đối với typ 2 tăng theo hoạt động tình dục.

Hội chứng Kawasaki

Biến chứng chính là viêm động mạch vành, xảy ra ở 20% số trường hợp không điều trị. Những yếu tố liên quan tới phát triển phình động mạch vành là tăng bạch cầu, tăng protein phản ứng C.

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Ỉa chảy nhiễm khuẩn cấp tính

Điều trị chủ yếu là bù nước và điện giải, trong một vài trường hợp có thể phải điều trị sốc mất nước và hỗ trợ hô hấp. Nói chung, phân lớn các trường hợp ỉa chảy cấp tính đều tự khỏi.

Một số bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio gây nên

V vulnificus và V alginolyticus đều không gây tiêu chảy, nhưng chủ yếu gây viêm mô tế bào dưới da và nhiễm khuẩn huyết tiên phát, Sau khi ăn sò có vi khuẩn hoặc tiếp xúc với nước biển.

Bệnh do các loài vi khuẩn Bartonella

Bệnh u mạch lan toả do trực khuẩn, là một trong những bệnh quan trọng do vi khuẩn Bartonella gây ra, Sốt chiến hào là bệnh sốt tái phát do rận truyền, tự khỏi do B. quintana gây ra.

Bệnh do vi khuẩn Listeria

Vi khuẩn huyết, có hoặc không có triệu chứng nhiễm khuẩn máu ở trẻ sơ sinh hoặc ở người lớn có suy giảm miễn dịch. Bệnh biểu hiện dưới dạng sốt không rõ nguồn gốc.

Bệnh do Nocardia

Bệnh có thể khuếch tán đến bất cứ bộ phận nào trong cơ thể. Áp xe não và các cục dưới da là hay gặp nhất, nhưng chỉ gặp ở người bị suy giảm miễn dịch.

Nhiễm tụ cầu khuẩn huyết

Trường hợp bệnh nhân có nguy cơ cao như người tiểu đường, người có suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ có viêm nội tâm mạc, người ta khuyên nên dùng dài ngày hơn.

Viêm não do arbovirus

Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.

Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)

Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Các bệnh do lậu cầu khuẩn

Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.

Viêm màng não do não mô cầu

Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.

Bệnh u hạt lympho hoa liễu

Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.

U hạt vùng bẹn

Đó là những cục thâm nhiễm tương đối ít đau và nhanh chóng bong ra, để lại các vết loét nông, bờ rõ rệt, nền là tổ chức hạt mủn, màu đỏ như thịt bò.

Cúm

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.