Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí

2016-05-03 01:01 PM

Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các vi khuẩn kỵ khí là thành phần bình thường của vi khuẩn chí trong cơ thể người. Các vi khuẩn chủ yếu ở trong khoang miệng (các xoắn khuẩn, prevotella, fusobacteria kỵ khí), ở da (các vi khuẩn dạng bạch hầu kỵ khí), tại ruột già (bacteroid, các liên cầu khuẩn kỵ khí, các Clostridium) và tại đường sinh dục nữ (bacteroid, liên cầu kỵ khí, fusobacterium) có thể trở nên gây bệnh khi di chuyển lạc đến một chỗ khác hoặc vào trong các khoang đóng kín của cơ thể.

Một số đặc điểm sau cho phép nghĩ đến nhiễm khuẩn kỵ khí: 1) Đa vi khuẩn, 2) Hay tạo ổ áp xe, 3) Mủ và tổ chức bệnh có mùi hôi, 4) Hay gặp viêm tắc tĩnh mạch nhiễm khuẩn và các ổ di bệnh đòi hỏi chích rạch dẫn lưu. Đại đa số vi khuẩn yếm khí hay gây bệnh, trừ Bacteroid fragilis, đều nhậy với penicillin G. Nhưng lượng kháng sinh đến nơi bị bệnh thường thấp vì có hiện tượng giảm tưới máu vùng bị bệnh, là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn kỵ khí phát triển, 5) Trừ khi nuôi cấy trong điều kiện đặc biệt, còn tuyệt đại đa số trường hợp kết quả nuôi cấy đều âm tính.

Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.

Bệnh tại đường hô hấp trên

Vi khuẩn Prevotella melaninogenica (trước đây được gọi là Bacteroides melaninogenicus), cùng với các xoắn khuẩn kỵ khí, là nguyên nhân phổ biến nhất gây nhiễm khuẩn quanh răng. Các vi khuẩn fusobacteria này cùng với peptostreptococci chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các bệnh như viêm xoang mạn, áp xe quanh hạnh nhân khẩu cái, viêm tai giữa mạn và viêm xương chũm. Vệ sinh và dẫn lưu thông thoáng cũng quan trọng như dùng kháng sinh. Toàn bộ vi khuẩn kỵ khí ở miệng đều nhậy cảm với penicillin, nhưng gần đây chúng có xu hướng kháng penicillin nhờ sản xuất được men beta-lactamase. Tuy vậy, penicillin vẫn là thuốc đầu tay, với liều từ 1- 2 triệu đơn vị tiêm ngày 6 lần, hoặc uống 0,5g ngày 4 lần nếu nhiễm vi khuẩn nhẹ hơn. Khi có dị ứng với penicillin, thì dùng clindamycin 600mg tiêm ngày 3 lần, hoặc ụống 300mg ngày 4 lần.

Bệnh tại phổi

Trong trường hợp vệ sinh răng miệng kém hoặc có viêm quanh răng, việc hít phải nước bọt (chứa 108 vi khuẩn kỵ khí và nhiều vi khuẩn ái khí trong 1ml) có thể gây viêm phổi hoại tử, áp xe phổi và viêm mủ màng phổi. Dù trong các bệnh này bao giờ cũng là do đa vi khuẩn nhưng thường thì các vi khuẩn kỵ khí, đặc biệt là P. melaninogenica, fusobacteria và peptostreptococci lá phổ biến nhất. Đa số các trường hợp viêm phổi này đều chỉ cần điều trị bằng kháng sinh. Chỉ khi có ứ mủ màng phổi mới cần dẫn lưu mủ qua thành ngực.

Penicillin vẫn là thuốc đầu tay trong điều trị viêm phổi do vi khuẩn kỵ khí, nhưng đã có đến 25% kháng penicillin, nhất là khi có các vi khuẩn là B. fragilis và P. melaninogenica. Clindamycin hiệu quả cao hơn penicillin trong viêm phổi kỵ khí, với liều 600mg tiêm tĩnh mạch một lần rồi chuyển sang uống 300mg ngày 3 - 4 lần. Cũng có thể dùng penicillin 2 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch ngày 6 lần rồi chuyển sang uống amoxicillin 500mg ngày 3 lần. Các thuốc thuộc nhóm cefalosporin thế hệ 2 như cefoxitin, cefbtetan và cefmetazol nhậy cảm với các vi khuẩn yếm khí, ngay cả khi chúng kháng penicillin. Chloramphenicol cũng hiệu quả, nhưng ít được dùng vì có nhiều thuốc khác hiệu quả cao.

Bệnh tại hệ thần kinh trung ương

Vi khuẩn kỵ khí là nguyên nhân phổ biến trong áp xe não, ứ mủ dưới màng cứng và viêm tắc tĩnh mạch nhiễm khuẩn tại hệ thần kinh trung ương. Vi khuẩn có thể tiến đến hệ thần kinh trung ương theo đường lan trực tiếp từ viêm xoang, viêm tai; viêm xương chũm; hoặc qua đường máu trong trường hợp có viêm phổi mạn tính. Kháng sinh như penicillin 20 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch phối hợp với metronidazol 750mg, đường tĩnh mạch ngày 3 lần là biện pháp điều trị bổ trợ quan trọng cùng với việc mổ dẫn lưu ổ áp xe. Một số trường hợp có nhiều ổ áp xe nhỏ trong não, có thể chỉ cần điều trị bằng kháng sinh đơn thuần trong 6 - 8 tuần mà không cần mổ dẫn lưu.

Nhiễm khuẩn trong ổ bụng

Ở đại tràng, cơ thể có đến 1011 vi khuẩn kỵ khí trong 1g phân, mà chủ yếu là B. fragilis, Clostridium và peptostreptococci. Các vi khuẩn này là nguyên nhân lớn của các trường hợp áp xe trong ổ bụng do chấn thương đại tràng, viêm túi thừa và áp xe quanh trực tràng, cũng như trong áp xe gan, viêm túi mật (thường 2 trường hợp sau có thêm các trực khuẩn ái khí dạng coli). Clostridium cũng có thể gây viêm thành túi mật. Vi khuẩn gây bệnh thông thường là các vi khuẩn kỵ khí, trực khuẩn gram (-) ái khí và đôi khi có cả cầu khuẩn ruột. Điều trị cần chống cả 2 loại vi khuẩn kỵ khí và ái khí. Có thể phải dùng nhiều kháng sinh phối hợp. Các kháng sinh tác dụng tốt chống B. fragilis gồm metronidazol, chloramphenicol, imipenem, ampicillin - sulbactam và ticarcillin-acid clavulanic. Cefoxitin, cefotetan và clindamycin có tác dụng tốt trong 80 - 90% trường hợp nhưng các thuốc thuộc nhóm cephalosporin thế hệ 3 tác dụng kém (chỉ có tác dụng với 50% chủng vi khuẩn). Bảng tóm tắt các liệu pháp kháng sinh dùng trong điều trị nhiễm khuẩn vừa và tương đối nặng (bệnh nhân có huyết động ổn định, có thể dẫn lưu ổ mủ được, chỉ số APACHE thấp, không có suy đa tạng), và khi nhiễm khuẩn nặng (trừ khi bệnh nhân bị viêm phúc mạc toàn thể, ổ áp xe lớn hoặc có nhiều ổ, huyết động không ổn định), đặc biệt nếu có nghi ngờ kháng thuốc. Ngoài ra cũng trình bày thêm liệu pháp kháng sinh đường uống trong trường hợp bệnh nhân uống được.

Bảng. Điều trị các bệnh nhiễm khuẩn kỵ khí trong ổ bụng

Đường uống:

Ciprofloxacin 750mg, uống ngày 2 lần cùng metronidazol 500mg, ngày 3 lần.

Đường tiêm tĩnh mạch:

Khi nhiễm khuẩn vừa và tương đối nặng:

Ticarcillin/acid clavulanic 3g/0,1g ngày tiêm 4 lần, hoặc Cetotetan 2g ngày 2 lần, hoặc

Clindamycin 600mg ngày 3 lần hay metronidazol 500mg ngày 3 lần cộng với gentamicin 5mg/kg/ngày.

Khi nhiễm khuẩn nặng:

Imipenem 0,5g, ngày 3 - 4 lần hoặc cettriaxon 1g, ngày 4 lần cộng với clindamycin 600mg ngày 3 lần hoặc metronidazol 500mg ngày 3 lần.

Nhiễm khuẩn tiểu khung và đường sinh dục phụ nữ

Vi khuẩn chí thông thường ở âm đạo và cổ tử cung gồm nhiều loại như: bacteroides, peptostreptococci, liên cầu nhóm B, lactobacilli, các vi khuẩn dạng coli; và đôi khi có cả Clostridium và các xoắn khuẩn. Các vi khuẩn này có thể gây viêm đường sinh dục và lan rộng ra từ đấy.

Dù các nguyên nhân chủ yếu của viêm vòi trứng là vi khuẩn lậu và các chlamydia, nhưng đa số các trường hợp áp xe vòi trứng - buồng trứng và tiểu khung thường có vai trò của vi khuẩn kỵ khí. Nhiễm khuẩn sau sinh thường do liên cầu ái khí hoặc tụ cầu, nhưng vẫn thường tìm thấy vi khuẩn kỵ khí, và trong các trường hợp nhiễm khuẩn nặng sau đẻ hay sau nạo thai, thường có vai trò của Clostridium và bacteroides. Tỷ lệ tử vong cao và điều trị thường đòi hỏi các kháng sinh có tác dụng cả với vi khuẩn kỵ khí hay ái khí dạng coli, cần dẫn lưu ổ áp xe hay cắt tử cung sớm.

Vãng khuẩn huyết và viêm nội tâm mạc

Vi khuẩn kỵ khí trong máu thường có nguồn gốc từ đường tiêu hoá, khoang miệng, loét do nằm lâu, hoặc từ đường sinh dục nữ. Viêm nội tâm mạc do các liên cầu kỵ khí và bán kỵ khí hoặc bacteroides nguồn gốc từ các noi tương tự vãng khuẩn huyết và đa số trường hợp có thể điều trị có hiệu quả bằng penicillin G, 20 triệu đơn vị mỗi ngày. Nhưng viêm nội tâm mạc do các vi khuẩn kỵ khí khác cần điều trị theo kết quả kháng sinh đồ. Đôi khi các vi khuẩn kỵ khí như corynebacteria (hay propionibacterium), Clostridium và bacteroides cũng có thể gây viêm nội tâm mạc.

Nhiễm khuẩn da và phẩn mềm

Nhiễm khuẩn kỵ khí ở da và mô mềm thường gặp sau chấn thương khi cung cấp máu cho mô không đầy đủ hoặc sau phẫu thuật và hay gặp nhất ở những nơi dễ bị nhiễm bẩn nhất do các vi khuẩn chí từ phân hoặc từ miệng. Thường có thể gặp hoại tử mô tiến triển và có mùi thôi. Có nhiều thuật ngữ khác nhau đã được dùng để phân loại các nhiễm khuẩn này như: hoại tử nhanh do vi khuẩn, viêm mô tế bào hoại tử nhanh, viêm cân hoại tử và viêm mô tế bào lạo xạo không do Clostridium. Dù có chút ít khác về vi khuẩn học trong từng bệnh, nhưng trên lâm sàng thường khó phân biệt các thể với nhau. Tất cả đều do hỗn hợp vi khuẩn kỵ khí và yếm khí gây nên và thường là phải cắt lọc ngoại khoa rộng rãi để cứu bệnh nhân. Bao giờ cũng phải hội chẩn ngoại khoa.

Các kháng sinh phổ rộng chống được cả các loại vi khuẩn kỵ khí và ái khí gram (-) và gram (+) như: vancomycin cộng metronidazol và gentamicin hoặc tobramycin, cần được chỉ định ngay ban đầu và sau đó điều chỉnh theo kết quả vi khuẩn học. Cần duy trì kháng sinh đến 1 tuần sau khi kiểm soát được tổn thương phá hủy tiến triển và bờ vết thương hết biểu hiện viêm.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh dại

Bệnh dại hầu hết là tử vong, những người sống sót có thể là do nhiễm virus giống dại. Người thầy thuốc đối diện với vấn đề thường gặp nhất trên lâm sàng là xử trí bệnh nhân bị động vật cắn.

Sốt do ve

Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Bệnh do Brucella

Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.

Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A

Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.

Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột

Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.

Một số nhiễm khuẩn do liên cầu nhóm A

Mọi tình trạng nhiễm liên cầu, đặc biệt là viêm cân hoại tử đều có thể bị hội chứng sốc nhiễm độc tố liên cầu. Bệnh có đặc điểm là: viêm da hoặc viêm tổ chức phần mềm, suy hô hấp cấp, suy thận.

Bệnh u hạt lympho hoa liễu

Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.

Sốt do chuột cắn

Sốt do chuột cắn cần được phân biệt với viêm hạch và phát ban do chuột cắn trong sốt do Streptobacillus gây nên. Về mặt lâm sàng, viêm khớp và đau cơ nặng.

Bệnh do Tularemia

Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.

Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu

Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.

Chlamydia psittaci và bệnh sốt vẹt

Bệnh thường khởi phát nhanh, có sốt, ớn lạnh, đau cơ, ho khan và đau đầu. Các dấu hiệu bệnh như mạch nhiệt phân ly, gõ phổi đục và nghe phổi có ran.

Sốt Q

Viêm nội tâm mạc ít gặp nhưng lại là thể nặng của nhiễm Coxiella và liên quan với tình trạng tổn thương miễn dịch, việc sống ở vùng thành thị, uống sữa tươi.

Viêm màng não do phế cầu

Các chủng kháng penicillin lại thường có kháng chéo cả với cephalosporin thế hệ 3. Kháng sinh đồ là hết sức cần thiết trong những trường hợp như vậy.

Viêm màng não do não mô cầu

Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn

Trong trường hợp có tổn thương hệ thần kinh trung ương dịch não tủy cho thấy tăng áp lực, các tế bào lympho bất thường và protein.

Viêm tủy xương do tụ cầu vàng

Có thể là nhiễm khuẩn cấp tính với cầc triệu chứng, khu trú và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân. Nhưng cũng có thể tiến triển âm ỉ, chỉ thấy đau mơ hồ.

Các bệnh do nấm Actinomyces

Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương.

Bệnh uốn ván

Triệu chứng đầu tiên là đau và tê vùng vi khuẩn xâm nhập rồi tiếp đến là co cứng cơ vùng lân cận. Tuy nhiên, thường gặp triệu chứng đầu tiên đưa bệnh nhân đến khám là cứng hàm, cứng cổ, khó nuốt và kích thích.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Bệnh do Hantavirus

Chẩn đoán dựa vào phản ứng huyết thanh học bằng nhuộm hóa học mô miên dịch hoặc bằng kỹ thuật khuyếch đại PCR của ADN virus trong tổ chức.

Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao

Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol, Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận.