- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Tổn thương phổi do tia xạ
Tổn thương phổi do tia xạ
Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Phổi là cơ quan nhạy cảm với tia xạ có thể bị ảnh hưởng bởi điều trị phóng xạ bên ngoài. Đáp ứng của phổi được xác định bởi thể tích phổi bị chiếu tia, liều và tỷ sổ trị liệu, các yếu tố tăng hiệu lực ví dụ hóa trị liệu cùng lúc, trị liệu bàng tia xạ trước đó trong cùng một vùng và việc ngừng đồng thời biện pháp cơrticosteroid. Tổn thương phổi do tia xạ có triệu chứng xảy ra trong 10% số bệnh nhân được điều trị với trị liệu megavolt trong điều trị ung thư lồng ngực, 5 - 15% số bệnh nhân được điều trị ung thư phổi và 5 - 35% số bệnh nhân được điều trị u lympho. Có hai pha đáp ứng của phổi đối với tia xạ: pha cấp (viêm phổi tia xạ) và pha mạn tính (xơ phổi tia xạ).
Viêm phổi tia xạ
Viêm phổi tia xạ thường xảy ra 2 - 3 tháng (từ 1 - 6 tháng) sau khi hoàn thành quang tuyến trị liệu và được đặc trưng bởi khởi phát âm thầm khó thở, ho khan dại dẳng, cảm giác lồng ngực đầy hoặc đau, yếu mệt và sốt. Phát hiện mô bệnh học nổi trội là hình ảnh của viêm phổi kẽ tế bào lympho. Vùng phổi bị tổn thương nghe có tiếng lép bép thì hít vào khi bệnh nặng, trụy hô hấp và tím tái xảy ra. Đó là đặc điểm của hội chứng trụy hô hấp người lớn (ARDS). Thường có tăng bạch cầụ, tăng thời gian lắng máu. Xét nghiệm chức năng phổi phát hiện thể tích phổi giảm, giãn, suất phổi giảm, thiếu oxy máu, khả năng khuếch tán giảm, thông khí tự nguyện tối đa giảm. X quang phổi ít có mối quan hệ với các triệu chứng, thường thấy thâm nhiễm phế nang hay thâm nhiễm nốt với hình mờ như kính mờ được giới hạn của vùng bị chiếu xạ. Thường chụp phế quản có thể thấy bờ của thâm nhiễm sắc gọn giúp ta phân biệt viêm phổi tiạ xạ với những trường hợp khác như viêm phổi nhiễm khuẩn, sự trải rộng của mạch bạch huyết của ung thư và khối u tái phát. Điều trị gồm có aspirin, thuốc chặn ho và nghỉ ngơi tại giường. Suy hô hấp cấp nếu có thì điều trị một cách thích hợp. Dù không có bằng chứng là corticosteroid có hiệu qủa trong viêm phổi tía xạ, song prednison (1mg/kg/ngày, uống) thường được cho ngay trong khoảng một tuần sau đó giảm liều và duy trì ở 20 - 40 mg/ngày trong nhiều tuần rồi giảm chậm đi. Viêm phổi tia xạ thường được giải quyết trong 2 - 3 tuần. Tử vong do ARDS ít gặp.
Xơ phổi do tia xạ
Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực. Các bệnh nhân viêm phổi tia xạ phát triển thành xơ phổi sau một giai đoạn xen kẽ giữa chừng tốt 6-12 tháng. Hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng dù rằng khó thở tiến triển một cách chậm chạp xảy ra ở một số người. Xơ phổi tia xạ có thể xảy ra có hoặc không có tiền sử viêm phổi tia xạ. Tâm phế mạn và suy hô hấp mạn ít khi xảy ra. Hình ảnh X quang có hình ảnh phổi tắc nghẽn, xơ kẽ và xơ màng phổi dày đặc, thể tích phổi giảm, vòm hoành nhô cao, vùng chiếu tia xạ có ranh giới sắc rõ. Không có điều trị đặc hiệu và corticosteroid không có tác dụng.
Các biến chứng khác của trị liệu bằng tia xạ
Các biến chứng khác của điều trị bằng tia xạ trực tiếp đối với lồng ngực có tràn dịch màng tim, viêm màng ngoài tim co thắt, dò khí quản - thực quản, bệnh nấm candida thực quản, viêm da tia xạ, gãy xương sườn, tràn dịch màng phổi ít, viêm phổi tia xạ ngoài vùng chiếu tia, tràn khí màng phổi tự phát và tắc hoàn toàn đường hô hấp trung tâm ít khi xảy ra.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm tắc tiểu phế quản
Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi
Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.
Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản
Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.
Các khối u trung thất
CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.
Viêm mạch phổi và bệnh u hạt
Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.
Các hội chứng hít sặc ở phổi
Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.
Bệnh do mycobacteria không phải lao
Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.
Lao phổi: chẩn đoán và điều trị
Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.
Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch
Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.
Hít phải khói
Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.
Tắc đường hô hấp
Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.
Giảm thông khí phế nang tiên phát
Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.
Hen phế quản
Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.
Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi
Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Các bệnh phổi kẽ
Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.
Tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.
Ung thư trung biểu mô màng phổi
Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.
Tràn dịch màng phổi
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.
Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick
Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.
Ung thư phổi thứ phát
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.
Nhiễm protein phế nang phổi
Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.
Các bệnh phổi nghề nghiệp
Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.
Giãn phế quản
Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.