Bệnh đa hồng cầu tiên phát

2016-11-15 12:35 AM

Nếu khối hồng cầu tăng, phải xác định tăng này là tiên phát hay thứ phát. Đa hồng cầu tiên phát là một rối loạn của tủy xương đặc trưng bằng sự sản xuất quá mức tự thân của các tế bào dòng hồng cầu.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những yếu tố cần thiết cho chẩn đoán

Tăng khối hồng cầu.

Lách to.

Độ bão hoà oxy động mạch bình thường.

Số lượng bạch cầu, tiểu cầu thường tăng.

Nhận định chung

Đa hồng cầu tiên phát là một rối loạn tăng sinh tủy mắc phải gây sản xuất quá mức cả ba dòng tế bào tạo huyết, chủ yếu nhất là hồng cầu. Hematocrit tăng (đến mức rất cao) có khi quá 54% ở nam và 51% ở nữ.

Bảng. Nguyên nhân gây đa hồng cầu

Đa hồng cầu tương đối.

Đa hồng cầu thứ phát.

+ Thiếu oxy: bệnh tim, bệnh phổi, ở độ cao.

+ Carboxyhemoglobin: hút thuốc.

+ Tổn thương thận

+ Khối u tiết erythropoietin (hiếm gặp).

+ Huyết sắc tố bất thường (hiếm gặp).

Đa hồng cầu tiên phát.

Khi hematocrit tăng, phải đo khối hồng cầu để xác định đa hồng câu là thực sự hay là tăng hồng cầu tương đối. Giá trị bình thường của khối hồng cầu là 26 - 34 mL/kg ở nam và 21 - 29 mL/kg ở nữ. Đa hồng cầu tương đối đặc biệt thường gặp ở nam trung niên có thể trọng tăng và tăng huyết áp (thường điều trị lợi tiểu). Hematocrit phần lớn là dưới 60%.

Nếu khối hồng cầu tăng, phải xác định tăng này là tiên phát hay thứ phát. Đa hồng cầu tiên phát là một rối loạn của tủy xương đặc trưng bằng sự sản xuất quá mức tự thân của các tế bào dòng hồng cầu. Việc sản sinh hồng cầu không phụ thuộc vào erythropoietin và mức erythropoietin huyết thanh thường là thấp. In vi tro, những tế bào tiền thân của dòng hồng cầu sẽ trường thành mà không cần có erythropoietin, đây là một phát hiện không thấy có ở những cá thể bình thường.

Đa hồng cầu tiên phát là bệnh tương đối hay gặp. 60% bệnh nhân là nam và tuổi trung bình bị bệnh là 60, rất hiếm gặp ở thanh niên dưới 40 tuổi.

Triệu chứng và dấu hiệu

Đa số bẹnh nhân có những triệu chứng liên quan đến thể tích máu tăng và độ quánh máu tăng. Những khó chịu thường gặp là nhức đầu, choáng váng, ù tai, mờ mắt và mệt nhọc. Ngứa toàn thân nhất là sau khi tắm nước ấm có thể là một triệu chứng nổi bật và do phóng thích histamin từ sự tăng lên số lượng tế bào ưa base. Bệnh nhân cũng có thể lúc đầu phàn nàn bị chẩảy máu cam. Điều này có thể do tình trạng xung huyết các mạch máu niêm mạc cùng với quá trình cầm máu bất thường do những bất thường về chất lượng chức năng tiểu cầu.

Thăm khám thực thể cho thấy tinh trạng đa huyết và các tĩnh mạch võng mạc xung huyết. Lách có thể to, sờ thấy trong 75% các trường hợp nhưng lách to chỉ phát hiện được sớm khi chụp hình.

Huyết khối là biến chứng hay gặp nhất của đạ hồng cầu tiên phát và là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong và mắc bệnh. Huyết khối có vẻ như liên quan đến tăng độ quánh của máu và chức năng tiểu cầu bất thường. Đa hồng cầu không được điều trị dẫn đến tần suất rất cao biến chứng huyết khối khi phẫu thuật và phẫu thuật chọn lọc phải được hoãn lại cho đến khi xử lí hoàn toàn tình trạng này. Một điều nghịch lý là cùng với huyết khối lại thấy chảy máu tăng. Có một tỉ lệ cao bị bệnh loét dạ dày cũng như chảy máu dạ dày ruột. Sản xuất quá mức acid uric có thể dẫn đến bị bệnh gút.

Phái hiện labo

Nét đặc trưng của đa hồng cầu tiên phát là hematocrit ở mức trên bình thường, có thể lên đến 60%. Hỉnh thái hồng cầu bình thường. Số lượng bạch cầu đặc biệt tăng cao đến 10.000 – 20.000/µL, đôi khi đến 1.000.000/µL. Hình thái tiểu cầu thường là bình thường, nhưng có thể thấy giảm hạt nhiều. Bạch cầu bình thường nhưng thường có tăng bạch cầu ái kiềm. Theo định nghĩa, khối hồng cầu tăng lên.

Tủy giàu tế bào, tăng sinh toàn bộ tất cả các phần tử tạo huyết. Một triệu chứng đặc hiệu là tăng số lượng tế bào nhân to. Dự trữ sắt không có trong tủy đã được vận chuyển vào khối hồng cầu lưu hành đã tăng lên.

Thiếu sắt nếu có thì là hậu quả của mất máu ở dạ dày - ruột kéo dài. Xuất huyết có thể làm giảm hematocrit xuống con số bỉnh thường (hay thấp hơn) gây nhầm lẫn trong chẩn đoán.

Mức vitamin B12 tăng rõ rệt vì mức tăng lên cửa transcobalattiin III (được bài tiết bởi bạch cầu). Phosphatase kiềm bạch cầu tăng một cách đặc biệt như là một dấu ấn của những bất thường chất lượng trong dòng tủy. Trị giá acid uric có thể bị tăng. Không thấy bất thường nhiễm sắc thể đặc hiệu trong bệnh này.

Mặc dù hình thẩi hồng cầu hiện tại thường là bình thường, nhưng hồng cầu nhỏ, nhược sắc, đa hình thái có thể là hậu quả của thiếu sắt sau điều trị bằng chích huyết. Cường lách tiến triển cũng có thể dẫn đến hồng cầu hình elip.

Chẩn đoán phân biệt

Đa hồng cầu tương đối trong đó hematocrit tăng là do thể tích huyết tương giảm hơn là do khối hồng cầu tăng, có thề do sử dụng các chất lợi tiểu hay có thể không có nguyên nhân rõ rệt.

Một nguyên nhân thứ phát của đa hồng cầu có thể nghi ngờ nếu không thấy lách to và có hematocrit tăng mà kèm theo tăng các dòng tế bào khác. Cần đo độ bão hòa oxy máu động mạch để xác định xem có phải nguyên nhân là thiếu oxy. Có thể thấy tiền sử hút thuốc và phải đo nồng độ carboxyhemoglobin nếu có chỉ định. Cần làm siêu âm thận để tìm kiếm các khối u hay nang bài tiết erythropoietin. Nếu có tiền sử gia đình bị bệnh thì cần thăm dò chứng hemoglobin có ái tính cao với oxy bẩm sinh.

Đa hồng cầu tiên phát cần phân biệt với các bệnh tăng sinh tủy xương khác. Tăng rõ rệt số lượng bạch cầu trên 30.000/µL cần xem có phải là bệnh bạch cầu mạn thể tủy. Bệnh này được khẳng định bằng một tỷ lệ thấp phosphatase kiềm bạch cầu thấp và bằng sự hiện diện của nhiễm sắc thể Philadelphia. Hình thái hồng cầu bất thường và hồng cầu có nhân ở máu ngoai vi làm cho nghĩ đến xơ tủy. Hoàn cảnh này được chẩn đoán bằng sinh thiết tủy xương cho thấy tủy bị xơ. Tăng tiểu cầu tiên phát được chẩn đoán khi số lượng tăng rõ rệt và số lượng hồng cầu lại bình thường.

Điều trị

Phương pháp điềú trị lựa chọn là chích huyết tĩnh mạch. Một đơn vị (khoảng 500 ml) lấy ra hàng tuần cho đến khi hematocrit xuống dưới 45%. Hematocrit phải được duy trì dưới 45% bằng cách chích huyết tiếp nếu cần vì chích huyết liên tiếp sẽ gây thiếu sắt nên phải giảm dần. Điều quan trọng là cần tránh dùng thêm sắt vì như vậy có thể trở ngại cho mục đích chích huyết. Không cần thiết theo chế độ ăn giảm sắt. Người bệnh thường cảm thấy dễ chịu hơn ngay khi hematocrit hạ thấp. Duy trì hematocrit ở mức binh thường sẽ làm giảm được tần suất biến chứng huyết khối.

Đôi khi chỉ định điều trị ức chế tủy xương. Những chỉ định điều trị là khi phải chích huyết nhiều, tiểu cầu tăng cao và ngứa, không thể chịu được. Mặc dù không có chứng cứ, đa số các nhà huyết học cho rằng làm gịảm tiểu cầu xuống dưới 700.000/µL sẽ làm giảm nguy cơ biến chứng huyết khối, một nguyên nhân chủ yếu gây tử vong của bệnh này. Các chất alkyl hóa và phospho phóng xạ (32P) cho thấy nguy cơ chuyển thành bệnh bạch cầu cấp và nhìn chung cần tránh. Hydroxyurea hiện nay được dùng rộng rãi khi mà việc duy trì ức chế tủy xương có căn cứ cho thấy là không gây bệnh bạch cầu. Busulfan cũng có thể được dùng. Gần đây interferon alpha cho thấy có một số khả năng kiểm soát bệnh.

Vai trò của chất chống tiểu cầu như aspirin trong việc phòng ngừa những biến chứng huyết khối đang còn gây tranh cãi. Aspirin liều cao (325 mg, 3 lần/ngày) cộng với dipyridamol (25 mg, 3 lần/ngày) gây tăng rõ rệt chảy máu dạ dày rụột và không nên dùng một cách rộng rãi. Tuy nhiên, điều trị chống tiểu cầu có thể đươc cho phép ở những bệnh nhân chọn lọc có huyết khối tái phát mặc dù có thể kiểm soát số lượng tiểu cầu bằng điều trị ức chế tủy. Một viên aspirin hằng ngày (325mg) có thề là một cách điều trị có hiệu quả.

Allopurinol có thể được chỉ định khi tăng acid uric máu. Biện pháp kháng histamin bằng diphenhydrámin hay một chất ức chế H1 khác có thể có ích trông vỉệc kiểm soát triệu chứng ngứa.

Tiên lượng

Đa hồng cầu là một bệnh không đau với thời gian sống trung bình 11 - 15 năm. Nguyên nhân chủ yếu gây tỷ lệ tử vong và tỷ lệ biến chứng huyết khối động mạch. Về sau đa hồng cầu tiên phát có thể phát triển thành xơ hóa tủy hay thành bệnh bạch cầu thể tủy mạn tính. Gần 5% trường hợp bệnh tiến triển thành bệnh bạch cầu cấp thể tủy thường kháng điều trị.

Bài viết cùng chuyên mục

Truyền máu: làm test hòa hợp, phản ứng và bệnh lây truyền

Hồng cầu đóng gói là một hợp thành được dùng nhiều nhất để làm tăng hematocrit. Mỗi đơn vị có một thể tích khoảng 300 mL trong đó gần 200 mL chứa hồng cầu.

Chất chống đông do Luput

Một cách trái khoáy, yếu tố chống đông do luput thường có liên quan với nguy cơ tăng bị huyết khối và sẩy thai tự phát liên tiếp.

Tình trạng tăng đông máu

Ung thư thường có nguy cơ tăng của cả huyết khối động mạch và tĩnh mạch. Trong một vài trường hợp, đông máu rải rác nội mạch mức độ thấp hình như cũng có trách nhiệm.

Kháng thể yếu tố VIII mắc phải

Điều trị chọn lọc là cyclophosphamid thường phối hợp với prednison. Trong thời gian quá độ, việc thay đổi yếu tố VIII tái phạm có thể là cần thiết. Thay huyết tương để làm giảm trị giá chất ức chế có thể có ích.

Đông máu rải rác nội mạch

Quá trình đông máu thường được hạn chế ở một diện tích khu trú bởi sự phối hợp của dòng máu và các chất ức chế động máu lưu hành, đặc biệt là antithrombin III.

Thiếu vitamin K

Những yếu tố tham gia gây thiếu vitamin K, gồm chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, kém hấp thu và những kháng sinh phổ rộng làm mất các khuẩn lạc

Bệnh lý đông máu trong bệnh gan

Bệnh lý đông máu do bệnh gan gây ra những bất thường rõ rệt hơn về thời gian prothrombin và thời gian thromboplastin một phần. Rất sớm trong tiến trình bệnh gan, chỉ có thời gian prothrombin bị tổn thương.

Một số rối loạn đông máu bẩm sinh

Trong rối loạn hiếm gặp này, fibrinogen không có và cả thời gian prothrombin lẫn thời gian thromboplastin một phần đều kéo dài rõ rệt. Những bệnh nhân này có thể bị rối loạn chảy máu nặng giống như hemophilia.

Hemophila B: bệnh ưa chảy máu B

Hemophilia yếu tố IX được điều trị bằng yếu tố IX đâm đặc. Yếu tố VIII đậm đặc là không có hiệu quả trong thể bệnh hemophilia này, do vậy cần phải phân biệt giữa hai thể bệnh.

Hemophilia A: bệnh ưa chảy máu A

Thật đáng buồn, hiện nay nhiều người bị hemophilia có huyết thanh dương tính của nhiễm HIV lan truyền qua yếu tố VIII cô đặc và nhiều người đã bị AIDS.

Rối loạn chất lượng tiểu cầu mắc phải

Tất cả rối loạn tặng sinh tủy đều có thể gây ra những bất thường chức năng tiểu cầu. Có một số những bất thường hóa sinh trong những tiểu cầu này nhưng nguyên nhân của khuynh hướng chẩy máu thì không rõ.

Những rối loạn nội tại tiểu cầu

Khi nghi ngờ một rối loạn nội sinh về chất lượng tiểu cầu, cần phải nghiên cứu đánh giá độ ngưng tập tiểu cầu để có một chẩn đoán đặc hiệu.

Bệnh Von Willebrand

Yếu tố von Willebrand được tổng hợp trong mẫu tiểu cầu và các tế bào nội mô lưu hành trong huyết tương như những đa chuỗi cỡ khố khác nhau. Chỉ những dạng đa chuỗi dài có chức năng trong việc trung gian dính bám tiểu cầu.

Hội chứng tán huyết tăng ure huyết

Bệnh nhân đến với thiếu máu, chảy máu hay suy thận. Suy thận có thể có hoặc không có thiểu niệu. Trái với xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, không có những biểu hiện thần kinh nào ngoài những biểu hiện do tình trạng urê huyết cao.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối là một hội chứng ít gặp đặc trưng bởi bộ năm triệu chứng của thiếu máu huyết tán bệnh động mạch nhỏ, giảm tiểu cầu, những bất thường về thần kinh, sốt và những bất thường của thận.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn là một bệnh tự miễn trong đó một tự kháng thể IgG được tạo thành gắn vào tiểu cầu. Còn chưa rõ là kháng nguyên nào trên bề mặt tiểu cầu tham gia vào.

Macroglobin máu Waldenstrom

Bệnh biểu hiện một cách âm thầm ở những bệnh nhân ở tuổi 60 - 70. Bệnh nhân thường bị mệt do thiếu máu. Tăng quánh của huyết thanh có thể biểu hiện trên một số mặt.

Bệnh đa u tủy

U tủy là một bệnh của người lớn tuổi (tuổi trung bình lúc bị bệnh là 60). Đa số phàn nàn vì những triệu chứng liên quan đến thiếu máu, đau xương và nhiễm khuẩn. Phần nhiều là đau xương sống, xương sườn.

Bệnh Hodgkin

Đa số bệnh nhân đến vì một khối không đau, thường là ở cổ, Những dấu hiệu khác yêu cầu sự chú ý về y tế là các triệu chứng thể trạng như sốt

U lympho không Hodgkin

Bệnh nhân u lympho không đau thường có hạch to, đau và khu trú hoặc phát triển rộng. Các hạch bạch huyết to có thể ở sau phúc mạc, mạc treo và hố chậu.

Bệnh bạch cầu tế bào tóc

Đa số bệnh nhân bị tăng dần mệt nhọc. Một số khác thường phàn nàn vì triệu chửng có liên quan đến lách to nhiều và một số khác thì được chú ý vì nhiễm khuẩn.

Bệnh bạch cầu thể lympho mạn tính

Những bệnh tăng sinh lympho khác như macroglobulin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu tế bào tóc hay u lympho ở giai đoạn bệnh bạch cầu được phân biệt trên cơ sở hình thái các lympho bào lưu hành và tủy xương.

Bệnh bạch cầu cấp

Thăm khám thấy bệnh nhân xanh xao, xuất huyết dưới da, ban xuất huyết, và nhiều dấu hiệu khác của nhiễm khuẩn, viêm miệng, và phì đại lợi có thể thấy ở những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu thế bạch cầu đơn nhân.

Hội chứng loạn sản tủy

Loạn sản tủy bao gồm nhiều hội chứng không thuần nhất, Những loạn sản tủy không có tăng nguyên bào trong tủy được gọi là thiếu máu kháng điều trị có hoặc không có hồng cầu non chứa sắt

Bệnh bạch cầu thể tủy mạn tính

Bệnh tiến triển thường có sốt mà không có nhiễm khuẩn, đau xương, lách to. Trong các cơn tăng nguyên bào, bệnh nhân có thể bị chẩy máu và nhiễm khuẩn do suy tủy xương.

Xơ tủy

Xơ tủy phát triển ở những người lớn trên 50 tuổi và thường bát đầu âm thầm. Bệnh nhân rất hay thấy yếu mệt do thiếu máu hay cảm giác đầy bụng do lách to. Biểu hiện ít gặp là chảy máu và đau xương.

Bệnh bạch cầu và các rối loạn tăng sinh tủy

Tuy nhiên, những rối loạn này được xếp nhóm cùng nhau vì bệnh có thể tiến triển từ thể này thành thể khác và vì những bệnh lai tạo được xem xét một cách chung

Giảm bạch cầu trung tính

Trường hợp hội chứng Felty dẫn đến nhiễm khuẩn liên tiếp thì cắt lách thường làm giảm loét chân và làm giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn nhưng bất cứ điều trị thế nào thì đều không tăng số lượng bạch cầu trung tính.

Thiếu máu bất sản

Thiếu máu suy tủy là một hoàn cảnh suy giảm tủy xương phát sinh từ tổn thương hay từ những biểu hiện bất thường của tế bào gốc. Tủy xương trở nên giảm sinh và giảm phát triển ba dòng ngoại biên.

Thiếu máu huyết tán vi mạch và huyết tán liên quan nhiễm khuẩn

Thiếu máu huyết tán vi mạch là một nhóm bệnh trong đó xẩy ra sự phân mảnh hồng cầu. Thiếu máu ở nội mạch, gây hemoglobin huyết, hemoglobin niệu và trong những trường hợp nặng methalbumin huyết.

Bệnh ngưng kết tố lạnh

Đa số những trường hợp bệnh ngưng kết tố lạnh mạn tính là không rõ nguyên nhân. Những trường hợp khác thấy phối hợp với macroglobin máu Waldenstrom, trong đó một paraprotein IgM đơn dòng được sản xuất.

Thiếu máu huyết tán tự miễn dịch

Gần một nửa các trường hợp thiếu máu huyết tán tự miễn dịch không rõ nguyên nhân. Bệnh có thể cũng gặp phối hợp với luput ban đỏ hệ thống, bệnh bạch cầu mạn tính thể lympho hay khối u lympho toàn thân.

Thiếu máu hồng cầu hình liềm và các hội chứng liên quan

Mức độ hóa liềm chịu ảnh hưởng của một số những yếu tố, quan trọng hơn cả là nồng độ hemoglobin S trong từng hồng cầu. Hồng cầu bị mất nước làm cho nó nhanh chóng dễ bị tổn thương dẫn đến liềm hóa.

Thiếu men Glucose 6 phosphat dehydrogenase

Bệnh nhân thường vẫn khoẻ, không có thiếu máu mạn tính hay lách to. Huyết tán xẩy ra là kết quả của các stress oxy hóa trên hồng cầu phát sinh ra hoặc bởi nhiễm khuẩn hoặc do dùng một số thuốc nào đó.

Thiếu men Pyruvat kinase

Thiếu men pyruvat kinase rất hiếm, là một bệnh di truyền lặn theo nhiễm sác thể thường, gây thiếu máu huyết tán, thường chỉ ở tuổi niên thiếu. Cùng với thiếu máu, có thể lách to và sỏi mật sắc tố.

Đái huyết sắc tố kịch phát về đêm

Thiếu máu ở những mức độ nặng khác nhau và có thể có hoặc không có tăng hồng cầu lưới. Những bất thường của kính phết máu không giúp cho chẩn đoán và có thể thấy các hồng cầu hình thoi to.

Bệnh hồng cầu hình thoi di truyền

Trong đa số thể bệnh hồng cầu hỉnh thoi di truyền, rối loạn huyết tán nhẹ được bù trừ tốt và chỉ thiếu máu ít hoặc không có. Tuy nhiên, những thể nặng hơn có thể gây thiếu máu, lách to và sỏi sắc tố mật.

Bệnh hồng cầu hình bi di truyền

Thiếu máu ở những mức độ khác nhau và hematocrit có thể bình thường. Bao giờ cũng có tầng hồng cầu lưới, kính phết máu ngoại biên cho thằy có hồng cầu hình bi, hồng câu nhỏ, nhạt màu ở trung tâm.

Thiếu máu huyết tán

Thiếu máu huyết tán là một nhóm bệnh trong đó đời sống hồng cầu bị giảm ngắn, hoặc từng thời kì hoặc liên tục. Tủy xương có khả năng tăng sản xuất hồng cầu lên gấp 8 lần để đáp ứng với đời sống hồng cầu bị giảm.

Bất sản hồng cầu thuần túy

Bất sản hồng cầu thuần tuý mắc phải ở người trưởng thành là cực kỳ hiếm. Đây có vẻ như là một bệnh tự miễn dịch trong đó một kháng thể IgG đặc biệt đánh vào những tiền thân dòng hồng cầu.

Thiếu acid folic

Acid folic là một thuật ngữ chung dùng cho acid pteroylmonoglutamic. Ở dạng như tetrahydrofolat, nó được dùng như một chất trung gian quan trọng của nhiều phản ứng.

Thiếu vitamin B12

Vitamin B12 có trong mọi thực phẩm nguồn gốc động vật nên chế độ ăn thiếu vitamin B12 là rất hiếm và chỉ gặp ở những người ăn chay, hoàn toàn ăn rau và tránh mọi thực phẩm nguồn gốc động vật như thịt, cá.

Các thể bệnh Thalassemia

Hội chứng α thalassemia thường gặp, trước hết ở những người từ Đông Nam chẩu Ấ, Trung Quốc, ít gặp hơn ở những người da đen bình thường.

Bệnh học thiếu máu trong bệnh mạn tính

Việc chẩn đoán nhầm thiếu máu thiếu sát có thể xảy ra nếu hiện tượng tăng quá mức được thay thế bằng sắt huyết thanh giảm.

Thiếu máu thiếu sắt

Cũng có thể bị thiếu sắt vì chế độ ăn thiếu thốn nhưng điều này hiếm có ở người trưởng thành. Giảm hấp thụ sắt có thể là nguyên nhân thiếu sắt và thường do phẫu thuật dạ dày.

Thiếu máu hồng cầu non chứa sắt không Hemoglobin

Khi nhiễm độc chì là nguyên nhân, có thể điều trị bằng liệu pháp chelat hóa. Đôi khi bệnh giảm với những liều folat hoặc pyridoxin 200 mg/ngày, nhưng đa số không đáp ứng với điều trị.