- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh máu
- Thiếu máu huyết tán
Thiếu máu huyết tán
Thiếu máu huyết tán là một nhóm bệnh trong đó đời sống hồng cầu bị giảm ngắn, hoặc từng thời kì hoặc liên tục. Tủy xương có khả năng tăng sản xuất hồng cầu lên gấp 8 lần để đáp ứng với đời sống hồng cầu bị giảm.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Có thiếu máu ở người trưởng thành như hematocrit thấp hơn 4.1% (Hb < 13,5 g/dL) ở nam hay 37% (Hb < 12 g/dL) ở nữ. Dựa vào bệnh sử, nghĩ đến thiếu máu bẩm sinh khi có tiền sử cá nhân và gia đình. Dinh dưỡng thiếu thốn gây thiếu acid folic và có thể tham gia vào thiếu sắt. Phải luôn luôn nghĩ đến thiếu sắt khi có chảy máu. Thăm khám thực thể bao gồm chú ý cẩn thận đến các dấu hiệu của những bệnh máu tiên phát (các bệnh ở hạch, gan lách to hay tủy xương suy kém). Những thay đổi niêm mạc như lưỡi nhẵn bóng đưa ra khả năng thiếu máu hồng cầu khổng lồ.
Thiếu máu được phân loại tùy theo cơ sở sinh lí bệnh của chúng nghĩa là hoặc liên quan đến giảm sản xuất hoặc tăng mất hồng cầu hay tùy theo kích thước tế bào. Các khả năng chẩn đoán khi có thiếu máu hồng cầu nhỏ là thiếu sắt, bệnh thalassemia và thiếu máu trong những bệnh mạn tính. Thiếu máu hồng cầu nhỏ nhiều (Mean Cell volume - MCV - thể tích trung bình hồng câu < 70 fL) thường là do hoặc thiếu sát hoặc do thalassemia. Thiếu máu hồng cầu to có thể do hoặc nguyên hồng cầu khổng lò (thiếu folat hay vitamin B12) hoặc do những nguyên nhân không phải nguyên hồng cầu khổng lồ. Thiếu máu hồng cầu to quá (MCV > 125 fL) phần lớn do những nguyền nhân nguyên hồng cầu khổng lồ; cá biệt do hội chứng rối loạn tủy hoặc trước hay sau hóa trị liệu.
Thiếu máu huyết tán là một nhóm bệnh trong đó đời sống hồng cầu bị giảm ngắn, hoặc từng thời kì hoặc liên tục. Tủy xương có khả năng tăng sản xuất hồng cầu lên gấp 8 lần để đáp ứng với đời sống hồng cầu bị giảm. Và như vậy, chỉ bị thiếu máu khi khả năng bù trừ của tủy xương bị quá mức. Điều này xảy ra khi đời sống hồng cầu quá ngắn hoặc khi kháng bù trừ của tủy xương không được đầy đủ do một vài lí do thứ phát.
Vì đời sống hồng cầu là 120 ngày. Trong trường hợp sản xuất hồng cầu không có, hematocrit sẽ hạ xuống gần 1/100 của hematocrit mỗi ngày, điều này giải thích hematocrit giảm xuống ở khoảng 3% mỗi tuần. Thí dụ, một hematocrit hạ thấp từ 45% xuống 36% trong vòng 3 tuần không đủ để chứng tỏ huyết tán vì tỉ lệ hạ thấp này chỉ đơn thuần là ngừng sản xuất hồng cầu. Nếu hematocrit bị hạ với tốc độ nhanh hơn so với hạ do giảm sản xuất mới có thể là do mất máu hay huyết tán.
Tăng hồng cầu lưới là một đầu mối quan trọng của sự hiện diện huyết tán, vì trong đa số các bệnh huyết tán, tủy xương sẽ đáp ứng bằng cách tăng sản xuất hồng cầu. Tuy nhiên, huyết tán có thể tăng hồng cầu lưới khi một bệnh thứ hai (nhiễm khuẩn, thiếu folat) che lấp huyết tán; trong trường hợp này hematocrit bị hạ rất nhanh. Nhưng tăng hồng cầu lưới cũng vẫn có trong thời gian phục hồi của thiếu máu giảm sinh hay chảy máu. Chẩn đoán huyết tán một cách đúng đắn (khi loại trừ chảy máu) khi mà hematocrit hoặc hạ thấp hoặc ổn định mặc dù tăng hồng cầu lưới.
Bệnh huyết tán thường được phân loại hoặc theo tổn thương tại hồng cầu hoặc do mặt số yếu tố ngoại lai. Tổn thương nội tại được thấy ở mọi thành phần của hồng cầu bao gồm màng, các enzym phân hủy glucose và các enzym khác, hemoglobin. Đa số các bệnh này là có tính di truyền. Tuyệt đại đa số thiếu máu huyết tán do ngoại yếu tố là những thiếu máu huyết tán miễn dịch.
Một số nét đặc trưng labô là chung cho tất cả các thiếu máu huýết tán. Haptoglobin là một protein huyết tương bình thường gán và thanh lọc hemoglobin được phtíng thích trong huyết tương, nó có thể bị giảm trong thiếu máu huyết tán. Tuy nhiên, mức haptoglobin chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố và vl vậy không thật là chỉ dẫn đáng tin của huyết tán. Khi xảy ra huyết tán nội mạch có tăng hemoglobin trong máu thoáng qua. Hemoglobin được lọc qua cầu thận và thường được tái hấp thu bởi các tế bào ống thận. Đái huyết sắc tố sẽ chỉ xảy ra khi khả năng tái hấp thu Hb của những tế bào này bị quá mức. Trong trường hợp không có đái ra huyết sắc tố, rõ rang của huyết tán nội mạch trước tiên là sự hiện diện của hemosiderin trong các tế bào ống thận bị bong ra (hemosiderin nước tiểu dương tính). Nếu huyết tán nội mạch nặng, Hb máu và methemoglobin máu có thể có. Huyết tán làm tăng bilirubin gián tiếp và bilirubin toàn phần có thể lên đến 4mg/dL. Mức bilirubin cao hơn 4mg/dL chỉ rõ mức độ nào đó của rối loạn chức năng gan. Mức LDH huyết thanh tăng rõ rệt trong những trường hợp huyết tán bệnh vi mạch (xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, hội chứng huyết tán tăng ure huyết) và có thể tăng trong các thiếu máu huyết tận khác. Mức sắt thưòng là không bị thay đổi vì sắt từ trong hồng cầu được tái luân vòng qua hệ thống liên võng nội mạc. Chỉ những trường hợp huyết tán nội mạch mới dẫn đến thiếu sắt do tăng huyết sắc tố trong máu.
Bảng. Phân loại thiếu máu huyết tán
Nội tại
Khuyết tật màng: hồng cầu hình bi di truyền, hồng cằu hình thoi di truyền, đái huyết sắc tố kịch phát về đêm.
Khuyết tật phân hủy glucose: Thiếu men Pyrurate kinase, giảm phosphat máu nặng.
Tính chất dễ bị oxy hóa: Thiếu G6DP, methemoglobin máu.
Bệnh huyết sắc tố: Hội chứng hồng cầu hình liềm, hemoglobin không bền vững, methemoglobin máu.
Ngoại lai
Miễn dịch: Tự miễn, bệnh tăng sinh lympho, độc tính thuốc.
Bệnh vi mạch: Xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, hội chứng huyết tán tăng ure huyết, đông máu rải rác nội mạch, huyết tán do van. Adenocarcinom di căn, viêm mạch.
Nhiễm khuẩn: Plasmodium, Clostridium, Borrelia.
Cường lách
Bỏng.
Bài viết cùng chuyên mục
Thiếu men Pyruvat kinase
Thiếu men pyruvat kinase rất hiếm, là một bệnh di truyền lặn theo nhiễm sác thể thường, gây thiếu máu huyết tán, thường chỉ ở tuổi niên thiếu. Cùng với thiếu máu, có thể lách to và sỏi mật sắc tố.
Đái huyết sắc tố kịch phát về đêm
Thiếu máu ở những mức độ nặng khác nhau và có thể có hoặc không có tăng hồng cầu lưới. Những bất thường của kính phết máu không giúp cho chẩn đoán và có thể thấy các hồng cầu hình thoi to.
Các thể bệnh Thalassemia
Hội chứng α thalassemia thường gặp, trước hết ở những người từ Đông Nam chẩu Ấ, Trung Quốc, ít gặp hơn ở những người da đen bình thường.
Những rối loạn nội tại tiểu cầu
Khi nghi ngờ một rối loạn nội sinh về chất lượng tiểu cầu, cần phải nghiên cứu đánh giá độ ngưng tập tiểu cầu để có một chẩn đoán đặc hiệu.
Bệnh hồng cầu hình thoi di truyền
Trong đa số thể bệnh hồng cầu hỉnh thoi di truyền, rối loạn huyết tán nhẹ được bù trừ tốt và chỉ thiếu máu ít hoặc không có. Tuy nhiên, những thể nặng hơn có thể gây thiếu máu, lách to và sỏi sắc tố mật.
Bệnh bạch cầu thể tủy mạn tính
Bệnh tiến triển thường có sốt mà không có nhiễm khuẩn, đau xương, lách to. Trong các cơn tăng nguyên bào, bệnh nhân có thể bị chẩy máu và nhiễm khuẩn do suy tủy xương.
U lympho không Hodgkin
Bệnh nhân u lympho không đau thường có hạch to, đau và khu trú hoặc phát triển rộng. Các hạch bạch huyết to có thể ở sau phúc mạc, mạc treo và hố chậu.
Thiếu máu hồng cầu non chứa sắt không Hemoglobin
Khi nhiễm độc chì là nguyên nhân, có thể điều trị bằng liệu pháp chelat hóa. Đôi khi bệnh giảm với những liều folat hoặc pyridoxin 200 mg/ngày, nhưng đa số không đáp ứng với điều trị.
Bệnh ngưng kết tố lạnh
Đa số những trường hợp bệnh ngưng kết tố lạnh mạn tính là không rõ nguyên nhân. Những trường hợp khác thấy phối hợp với macroglobin máu Waldenstrom, trong đó một paraprotein IgM đơn dòng được sản xuất.
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối là một hội chứng ít gặp đặc trưng bởi bộ năm triệu chứng của thiếu máu huyết tán bệnh động mạch nhỏ, giảm tiểu cầu, những bất thường về thần kinh, sốt và những bất thường của thận.
Thiếu vitamin B12
Vitamin B12 có trong mọi thực phẩm nguồn gốc động vật nên chế độ ăn thiếu vitamin B12 là rất hiếm và chỉ gặp ở những người ăn chay, hoàn toàn ăn rau và tránh mọi thực phẩm nguồn gốc động vật như thịt, cá.
Bệnh học thiếu máu trong bệnh mạn tính
Việc chẩn đoán nhầm thiếu máu thiếu sát có thể xảy ra nếu hiện tượng tăng quá mức được thay thế bằng sắt huyết thanh giảm.
Bệnh bạch cầu thể lympho mạn tính
Những bệnh tăng sinh lympho khác như macroglobulin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu tế bào tóc hay u lympho ở giai đoạn bệnh bạch cầu được phân biệt trên cơ sở hình thái các lympho bào lưu hành và tủy xương.
Thiếu vitamin K
Những yếu tố tham gia gây thiếu vitamin K, gồm chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, kém hấp thu và những kháng sinh phổ rộng làm mất các khuẩn lạc
Thiếu máu bất sản
Thiếu máu suy tủy là một hoàn cảnh suy giảm tủy xương phát sinh từ tổn thương hay từ những biểu hiện bất thường của tế bào gốc. Tủy xương trở nên giảm sinh và giảm phát triển ba dòng ngoại biên.
Bệnh hồng cầu hình bi di truyền
Thiếu máu ở những mức độ khác nhau và hematocrit có thể bình thường. Bao giờ cũng có tầng hồng cầu lưới, kính phết máu ngoại biên cho thằy có hồng cầu hình bi, hồng câu nhỏ, nhạt màu ở trung tâm.
Thiếu men Glucose 6 phosphat dehydrogenase
Bệnh nhân thường vẫn khoẻ, không có thiếu máu mạn tính hay lách to. Huyết tán xẩy ra là kết quả của các stress oxy hóa trên hồng cầu phát sinh ra hoặc bởi nhiễm khuẩn hoặc do dùng một số thuốc nào đó.
Thiếu acid folic
Acid folic là một thuật ngữ chung dùng cho acid pteroylmonoglutamic. Ở dạng như tetrahydrofolat, nó được dùng như một chất trung gian quan trọng của nhiều phản ứng.
Một số rối loạn đông máu bẩm sinh
Trong rối loạn hiếm gặp này, fibrinogen không có và cả thời gian prothrombin lẫn thời gian thromboplastin một phần đều kéo dài rõ rệt. Những bệnh nhân này có thể bị rối loạn chảy máu nặng giống như hemophilia.
Tình trạng tăng đông máu
Ung thư thường có nguy cơ tăng của cả huyết khối động mạch và tĩnh mạch. Trong một vài trường hợp, đông máu rải rác nội mạch mức độ thấp hình như cũng có trách nhiệm.
Bệnh lý đông máu trong bệnh gan
Bệnh lý đông máu do bệnh gan gây ra những bất thường rõ rệt hơn về thời gian prothrombin và thời gian thromboplastin một phần. Rất sớm trong tiến trình bệnh gan, chỉ có thời gian prothrombin bị tổn thương.
Kháng thể yếu tố VIII mắc phải
Điều trị chọn lọc là cyclophosphamid thường phối hợp với prednison. Trong thời gian quá độ, việc thay đổi yếu tố VIII tái phạm có thể là cần thiết. Thay huyết tương để làm giảm trị giá chất ức chế có thể có ích.
Bệnh bạch cầu và các rối loạn tăng sinh tủy
Tuy nhiên, những rối loạn này được xếp nhóm cùng nhau vì bệnh có thể tiến triển từ thể này thành thể khác và vì những bệnh lai tạo được xem xét một cách chung
Hemophila B: bệnh ưa chảy máu B
Hemophilia yếu tố IX được điều trị bằng yếu tố IX đâm đặc. Yếu tố VIII đậm đặc là không có hiệu quả trong thể bệnh hemophilia này, do vậy cần phải phân biệt giữa hai thể bệnh.
Thiếu máu huyết tán vi mạch và huyết tán liên quan nhiễm khuẩn
Thiếu máu huyết tán vi mạch là một nhóm bệnh trong đó xẩy ra sự phân mảnh hồng cầu. Thiếu máu ở nội mạch, gây hemoglobin huyết, hemoglobin niệu và trong những trường hợp nặng methalbumin huyết.
