U lympho không Hodgkin

2016-11-16 09:34 AM

Bệnh nhân u lympho không đau thường có hạch to, đau và khu trú hoặc phát triển rộng. Các hạch bạch huyết to có thể ở sau phúc mạc, mạc treo và hố chậu.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Những u lympho không Hodgkin là một nhóm không đồng nhất của ung thư từ lympho bào. Bệnh rất khác nhau trong biểu hiện lâm sàng và tiến triển thay đổi từ thể không đau đến những thể ốm yếu tàn phá, phát triển nhanh.

Kết quả của những nghiên cứu sử dụng các kĩ thuật phân tử đã cung cấp những đầu mối cho quá trình bệnh sinh của những bệnh này. Mẫu nghiên cứu tốt nhất là u lympho Burkitt, trong đó những bất thường di truyền tế bào đặc trưng của chuyển đổi giữa những cánh tay dài của nhiễm sắc thể 8 và 14 đã được xác định. Chất tiền ung thư c - myc bị chuyển đổi từ vị trí bình thường của nó trên nhiễm sác thể 14. Những tế bào được ủy nhiệm sự phân hóa tế bào B có vẻ như có biểu hiện nổi bật của locus chức năng này và hình như là sự biểu hiện quá mức của c - myc (trong vị trí bất thường mới của chúng) có liên quan đến sự chuyển dạng ác tính. Trong các u lyrnpho nang, những chuyển đổi của một chất có thể gây ung thư bcl - 2 từ nhiễm sắc thể thứ 8 đến locus chuỗi nặng trên nhiễm sắc thể 14 có thể đóng một vai trò tương tự.

Việc phân loại các u lympho còn là một vấn đề đang được tranh luận. Gần đây, Viện ung thư quốc gia Mỹ đã tài trợ cho nhóm nghiên cứu đưa ra công thức đặc tính hóa u lympho này theo tính sinh học của chúng hoặc là thể không đau hoặc là thể tấn công.

Bảng. Phân loại các u lympho “công thức thực hành”

Cấp thấp

Lympho bào nhỏ.

Lympho bào nhỏ, dạng tế bào bón.

Tế bào nang nhỏ bám chặt.

Tế bào nang hỗn hợp.

Cấp trung gian

Tế bào nang lớn.

Tế bào bám chặt nhỏ rải rác.

Tế bào hỗn hộp rải rác.

Tế bào lớn rải rác.

Cấp cao

Nguyên bào miễn dịch.

Tế bào không bám chặt nhỏ (Burkitt).

Tế bào không bám chặt nhỏ (không Burkitt).

Nguyên bào lympho.

Dạng tế bào thực.

Các loại khác

Tế bào T ở da (u sùi dạng nấm).

U, lympho/bệnh bạch cầu tế bào trường thành.

Tăng lympho bào T.

Triệu chứng và dấu hiệu

Bệnh nhân u lympho không đau thường có hạch to, đau và khu trú hoặc phát triển rộng. Các hạch bạch huyết to có thể ở sau phúc mạc, mạc treo và hố chậu. Tuy nhiên, các u lympho không đau thường là lan tràn trong thời gian chẩn đoán bệnh và tủy xương thường cùng bị.

Bệnh nhân bị u lympho cấp cao có thể có hạch to hay những triệu chứng thể tạng như sốt, mồ hôi trộm ướt sũng hay sút cân. Thăm khám có thể có hạch to duy nhất hay có thể thấy những vị trí ngoài hạch của bệnh (da, ống dạ dày - ruột). Bệnh nhân bị u lympho Burkitt thường bị đau bụng hay cảm giác đầy bụng là những dấu hiệu nổi lên. Bệnh nhân bị nhiễm HIV thường dễ bị u lympho không Hodgkin và có thể khu trú vào hệ thần kinh trung ương.

Một khi chẩn đoán giải phẫu bệnh lí đã được đặt ra, cần phân giai đoạn. Thăm khám thực thể phải được bổ sung bằng chụp X quang lồng ngực và chụp cắt lớp CT bụng và vùng chậu. Sinh thiết tủy xương và trong những trường hợp cần thiết với hình thái học nguy cơ cao thì cần tiến hành chọc dịch não tủy.

Xét nghiệm

Máu ngoại biên thường bình thường, nhưng một số u lympho có thể ở giai đoạn "bệnh bạch cầu". Trong những hoàn cảnh này việc phân biệt giữa bệnh bạch cầu và u lympho rất là thất thường vì tế bào ác tính có những đặc tính như nhau. Có thể là u lympho hay là những u lympho tế bào nhỏ (bệnh bạch cầu mạn thể lympho), u lympho tế bào nhỏ (bệnh macroglobulin máu Waldenstrom), u lympho tế bào nhỏ bám chặt thành nang (bệnh bạch cầu tế bào lymphosarcom), u lympho tế bào T ở da (hội chứng Sezary), u lympho từ nguyên bào lympho (bệnh bạch cầu tế bào lympho cấp thể tế bào T) và bệnh u lympho Brukitt (bệnh bạch cầu nguyên bào lympho thể tế bào B).

Sự liên quan của tủy xương thường được biểu hiện bằng các đám ngưng tập lympho cận bè. Trong một vài u lympho cấp cao, màng não có thể bị và dịch não tủy có thể có tế bào ác tính. Chụp X quang có thể thấy u trung thất trong các u lympho từ nguyên bào lympho.

Trị giá LDH huyết thanh thường dùng để đánh giá mức độ lan tràn của bệnh và tình trạng xâm lấn của u; với những trị số cao hơn chứng, tỏ bệnh phát triển rộng hơn.

Chẩn đoán u lympho có được bằng sinh thiết tổ chức: Hút bằng kim nhỏ có thể mang lại những kết quả nghi ngờ nhưng thường làm sinh thiết hạch bạch huyết (hay sinh thiết tổ chức ngoài hạch liên quan).

Điều trị

U lympho không đau thường không điều trị khỏi được mà chỉ điều trị đối phó. Nếu bệnh nhân không có triệu chứng, có thể ban đầu không cần điều trị - Tuy nhiên, trong 1- 3 năm, bệnh thường tiến triển và đòi hỏi điều trị. Quyết định điều trị phụ thuộc vào tuổi tác, tình trạng và độ lan rộng của bệnh. Điều trị đầu tiên dựa vào các chất alkyl hóa. Thuốc thích hợp là chlorambucil 0,6 - 1 mg/kg mỗi 3 tuần hoặc phối hợp với cyclophosphamid, vincristin và prednison (CVP). Bệnh nhán bị xâm phạm nhiều hơn hoặc bị kháng thuốc có thề điều trị tích cực hơn. Những bệnh nhân bị bệnh khu trú có thể bắt đầu điều trị bằng chiếu tia.

Bệnh nhân u lympho cấp cao được điều trị có thể khỏi hẳn. Chiếu xạ đôi khi được dùng cho thể khu trú (bổ sung bằng hóa trị liệu tích cực ngắn ngày) nhưng điều trị duy nhất là hóa trị liệu phối hợp. Chế độ điều trị kinh điển là cyclophosphamid, doxorubicin, vincristin và prednison (CHOP). Vẫn còn phải chứng tỏ là chế độ điều trị mới và tích cực hơn này tạo ra những kết quả hơn hẳn. Với những bệnh nhân bị u lympho có nguy cơ cạo bị xâm lấn thì ghép tủy tự thân có thể làm tăng khả năng khỏi bệnh.

Bệnh nhân bị tái phát sau đáp ứng đầu tiên sẽ được, điều trị có kết quả bằng hóa trị liệu tích cực và ghép tủy xương tự thân.

Tiên luợng

Bệnh nhân bị u lympho không đau sống thêm trung bình là 6 - 8 năm. Bệnh này về sau trở nên kháng với hóa trị liệu. Điều này thường xẩy ra ở thời điểm tiến triển mô học của bệnh đến một thể xâm lấn nhiều hơn. Tiên lượng của những bệnh nhân u lympho cấp cao phụ thuộc vào sự đáp ứng của họ với hóa trị liệu. Tùy dưới nhóm bệnh lí ban đầu và mức độ lan rộng ban đầu, những bệnh nhân này có thể khỏi với mức rất khác nhau.

Với điều trị thích hợp, khoảng 50% bệnh nhân u lympho tế bào lớn lan tràn có thể khỏi. Kết quả tốt hơn ở những bệnh nhân trẻ, lâm sàng tốt và giai đoạn bệnh ít tiến triển. Việc điều trị bằng ghép tủy xương tự thân có thể có hiệu quả trong 50% các trường hợp nếu bệnh vẫn còn đáp ứng với hóa trị liệu và người bệnh đến ghép tủy xương trong điều kiện tốt, kích thước khối u tối thiểu.

Bài viết cùng chuyên mục

Truyền máu: làm test hòa hợp, phản ứng và bệnh lây truyền

Hồng cầu đóng gói là một hợp thành được dùng nhiều nhất để làm tăng hematocrit. Mỗi đơn vị có một thể tích khoảng 300 mL trong đó gần 200 mL chứa hồng cầu.

Chất chống đông do Luput

Một cách trái khoáy, yếu tố chống đông do luput thường có liên quan với nguy cơ tăng bị huyết khối và sẩy thai tự phát liên tiếp.

Tình trạng tăng đông máu

Ung thư thường có nguy cơ tăng của cả huyết khối động mạch và tĩnh mạch. Trong một vài trường hợp, đông máu rải rác nội mạch mức độ thấp hình như cũng có trách nhiệm.

Kháng thể yếu tố VIII mắc phải

Điều trị chọn lọc là cyclophosphamid thường phối hợp với prednison. Trong thời gian quá độ, việc thay đổi yếu tố VIII tái phạm có thể là cần thiết. Thay huyết tương để làm giảm trị giá chất ức chế có thể có ích.

Đông máu rải rác nội mạch

Quá trình đông máu thường được hạn chế ở một diện tích khu trú bởi sự phối hợp của dòng máu và các chất ức chế động máu lưu hành, đặc biệt là antithrombin III.

Thiếu vitamin K

Những yếu tố tham gia gây thiếu vitamin K, gồm chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, kém hấp thu và những kháng sinh phổ rộng làm mất các khuẩn lạc

Bệnh lý đông máu trong bệnh gan

Bệnh lý đông máu do bệnh gan gây ra những bất thường rõ rệt hơn về thời gian prothrombin và thời gian thromboplastin một phần. Rất sớm trong tiến trình bệnh gan, chỉ có thời gian prothrombin bị tổn thương.

Một số rối loạn đông máu bẩm sinh

Trong rối loạn hiếm gặp này, fibrinogen không có và cả thời gian prothrombin lẫn thời gian thromboplastin một phần đều kéo dài rõ rệt. Những bệnh nhân này có thể bị rối loạn chảy máu nặng giống như hemophilia.

Hemophila B: bệnh ưa chảy máu B

Hemophilia yếu tố IX được điều trị bằng yếu tố IX đâm đặc. Yếu tố VIII đậm đặc là không có hiệu quả trong thể bệnh hemophilia này, do vậy cần phải phân biệt giữa hai thể bệnh.

Hemophilia A: bệnh ưa chảy máu A

Thật đáng buồn, hiện nay nhiều người bị hemophilia có huyết thanh dương tính của nhiễm HIV lan truyền qua yếu tố VIII cô đặc và nhiều người đã bị AIDS.

Rối loạn chất lượng tiểu cầu mắc phải

Tất cả rối loạn tặng sinh tủy đều có thể gây ra những bất thường chức năng tiểu cầu. Có một số những bất thường hóa sinh trong những tiểu cầu này nhưng nguyên nhân của khuynh hướng chẩy máu thì không rõ.

Những rối loạn nội tại tiểu cầu

Khi nghi ngờ một rối loạn nội sinh về chất lượng tiểu cầu, cần phải nghiên cứu đánh giá độ ngưng tập tiểu cầu để có một chẩn đoán đặc hiệu.

Bệnh Von Willebrand

Yếu tố von Willebrand được tổng hợp trong mẫu tiểu cầu và các tế bào nội mô lưu hành trong huyết tương như những đa chuỗi cỡ khố khác nhau. Chỉ những dạng đa chuỗi dài có chức năng trong việc trung gian dính bám tiểu cầu.

Hội chứng tán huyết tăng ure huyết

Bệnh nhân đến với thiếu máu, chảy máu hay suy thận. Suy thận có thể có hoặc không có thiểu niệu. Trái với xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, không có những biểu hiện thần kinh nào ngoài những biểu hiện do tình trạng urê huyết cao.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối là một hội chứng ít gặp đặc trưng bởi bộ năm triệu chứng của thiếu máu huyết tán bệnh động mạch nhỏ, giảm tiểu cầu, những bất thường về thần kinh, sốt và những bất thường của thận.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn là một bệnh tự miễn trong đó một tự kháng thể IgG được tạo thành gắn vào tiểu cầu. Còn chưa rõ là kháng nguyên nào trên bề mặt tiểu cầu tham gia vào.

Macroglobin máu Waldenstrom

Bệnh biểu hiện một cách âm thầm ở những bệnh nhân ở tuổi 60 - 70. Bệnh nhân thường bị mệt do thiếu máu. Tăng quánh của huyết thanh có thể biểu hiện trên một số mặt.

Bệnh đa u tủy

U tủy là một bệnh của người lớn tuổi (tuổi trung bình lúc bị bệnh là 60). Đa số phàn nàn vì những triệu chứng liên quan đến thiếu máu, đau xương và nhiễm khuẩn. Phần nhiều là đau xương sống, xương sườn.

Bệnh Hodgkin

Đa số bệnh nhân đến vì một khối không đau, thường là ở cổ, Những dấu hiệu khác yêu cầu sự chú ý về y tế là các triệu chứng thể trạng như sốt

Bệnh bạch cầu tế bào tóc

Đa số bệnh nhân bị tăng dần mệt nhọc. Một số khác thường phàn nàn vì triệu chửng có liên quan đến lách to nhiều và một số khác thì được chú ý vì nhiễm khuẩn.

Bệnh bạch cầu thể lympho mạn tính

Những bệnh tăng sinh lympho khác như macroglobulin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu tế bào tóc hay u lympho ở giai đoạn bệnh bạch cầu được phân biệt trên cơ sở hình thái các lympho bào lưu hành và tủy xương.

Bệnh bạch cầu cấp

Thăm khám thấy bệnh nhân xanh xao, xuất huyết dưới da, ban xuất huyết, và nhiều dấu hiệu khác của nhiễm khuẩn, viêm miệng, và phì đại lợi có thể thấy ở những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu thế bạch cầu đơn nhân.

Hội chứng loạn sản tủy

Loạn sản tủy bao gồm nhiều hội chứng không thuần nhất, Những loạn sản tủy không có tăng nguyên bào trong tủy được gọi là thiếu máu kháng điều trị có hoặc không có hồng cầu non chứa sắt

Bệnh bạch cầu thể tủy mạn tính

Bệnh tiến triển thường có sốt mà không có nhiễm khuẩn, đau xương, lách to. Trong các cơn tăng nguyên bào, bệnh nhân có thể bị chẩy máu và nhiễm khuẩn do suy tủy xương.

Xơ tủy

Xơ tủy phát triển ở những người lớn trên 50 tuổi và thường bát đầu âm thầm. Bệnh nhân rất hay thấy yếu mệt do thiếu máu hay cảm giác đầy bụng do lách to. Biểu hiện ít gặp là chảy máu và đau xương.

Bệnh đa hồng cầu tiên phát

Nếu khối hồng cầu tăng, phải xác định tăng này là tiên phát hay thứ phát. Đa hồng cầu tiên phát là một rối loạn của tủy xương đặc trưng bằng sự sản xuất quá mức tự thân của các tế bào dòng hồng cầu.

Bệnh bạch cầu và các rối loạn tăng sinh tủy

Tuy nhiên, những rối loạn này được xếp nhóm cùng nhau vì bệnh có thể tiến triển từ thể này thành thể khác và vì những bệnh lai tạo được xem xét một cách chung

Giảm bạch cầu trung tính

Trường hợp hội chứng Felty dẫn đến nhiễm khuẩn liên tiếp thì cắt lách thường làm giảm loét chân và làm giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn nhưng bất cứ điều trị thế nào thì đều không tăng số lượng bạch cầu trung tính.

Thiếu máu bất sản

Thiếu máu suy tủy là một hoàn cảnh suy giảm tủy xương phát sinh từ tổn thương hay từ những biểu hiện bất thường của tế bào gốc. Tủy xương trở nên giảm sinh và giảm phát triển ba dòng ngoại biên.

Thiếu máu huyết tán vi mạch và huyết tán liên quan nhiễm khuẩn

Thiếu máu huyết tán vi mạch là một nhóm bệnh trong đó xẩy ra sự phân mảnh hồng cầu. Thiếu máu ở nội mạch, gây hemoglobin huyết, hemoglobin niệu và trong những trường hợp nặng methalbumin huyết.

Bệnh ngưng kết tố lạnh

Đa số những trường hợp bệnh ngưng kết tố lạnh mạn tính là không rõ nguyên nhân. Những trường hợp khác thấy phối hợp với macroglobin máu Waldenstrom, trong đó một paraprotein IgM đơn dòng được sản xuất.

Thiếu máu huyết tán tự miễn dịch

Gần một nửa các trường hợp thiếu máu huyết tán tự miễn dịch không rõ nguyên nhân. Bệnh có thể cũng gặp phối hợp với luput ban đỏ hệ thống, bệnh bạch cầu mạn tính thể lympho hay khối u lympho toàn thân.

Thiếu máu hồng cầu hình liềm và các hội chứng liên quan

Mức độ hóa liềm chịu ảnh hưởng của một số những yếu tố, quan trọng hơn cả là nồng độ hemoglobin S trong từng hồng cầu. Hồng cầu bị mất nước làm cho nó nhanh chóng dễ bị tổn thương dẫn đến liềm hóa.

Thiếu men Glucose 6 phosphat dehydrogenase

Bệnh nhân thường vẫn khoẻ, không có thiếu máu mạn tính hay lách to. Huyết tán xẩy ra là kết quả của các stress oxy hóa trên hồng cầu phát sinh ra hoặc bởi nhiễm khuẩn hoặc do dùng một số thuốc nào đó.

Thiếu men Pyruvat kinase

Thiếu men pyruvat kinase rất hiếm, là một bệnh di truyền lặn theo nhiễm sác thể thường, gây thiếu máu huyết tán, thường chỉ ở tuổi niên thiếu. Cùng với thiếu máu, có thể lách to và sỏi mật sắc tố.

Đái huyết sắc tố kịch phát về đêm

Thiếu máu ở những mức độ nặng khác nhau và có thể có hoặc không có tăng hồng cầu lưới. Những bất thường của kính phết máu không giúp cho chẩn đoán và có thể thấy các hồng cầu hình thoi to.

Bệnh hồng cầu hình thoi di truyền

Trong đa số thể bệnh hồng cầu hỉnh thoi di truyền, rối loạn huyết tán nhẹ được bù trừ tốt và chỉ thiếu máu ít hoặc không có. Tuy nhiên, những thể nặng hơn có thể gây thiếu máu, lách to và sỏi sắc tố mật.

Bệnh hồng cầu hình bi di truyền

Thiếu máu ở những mức độ khác nhau và hematocrit có thể bình thường. Bao giờ cũng có tầng hồng cầu lưới, kính phết máu ngoại biên cho thằy có hồng cầu hình bi, hồng câu nhỏ, nhạt màu ở trung tâm.

Thiếu máu huyết tán

Thiếu máu huyết tán là một nhóm bệnh trong đó đời sống hồng cầu bị giảm ngắn, hoặc từng thời kì hoặc liên tục. Tủy xương có khả năng tăng sản xuất hồng cầu lên gấp 8 lần để đáp ứng với đời sống hồng cầu bị giảm.

Bất sản hồng cầu thuần túy

Bất sản hồng cầu thuần tuý mắc phải ở người trưởng thành là cực kỳ hiếm. Đây có vẻ như là một bệnh tự miễn dịch trong đó một kháng thể IgG đặc biệt đánh vào những tiền thân dòng hồng cầu.

Thiếu acid folic

Acid folic là một thuật ngữ chung dùng cho acid pteroylmonoglutamic. Ở dạng như tetrahydrofolat, nó được dùng như một chất trung gian quan trọng của nhiều phản ứng.

Thiếu vitamin B12

Vitamin B12 có trong mọi thực phẩm nguồn gốc động vật nên chế độ ăn thiếu vitamin B12 là rất hiếm và chỉ gặp ở những người ăn chay, hoàn toàn ăn rau và tránh mọi thực phẩm nguồn gốc động vật như thịt, cá.

Các thể bệnh Thalassemia

Hội chứng α thalassemia thường gặp, trước hết ở những người từ Đông Nam chẩu Ấ, Trung Quốc, ít gặp hơn ở những người da đen bình thường.

Bệnh học thiếu máu trong bệnh mạn tính

Việc chẩn đoán nhầm thiếu máu thiếu sát có thể xảy ra nếu hiện tượng tăng quá mức được thay thế bằng sắt huyết thanh giảm.

Thiếu máu thiếu sắt

Cũng có thể bị thiếu sắt vì chế độ ăn thiếu thốn nhưng điều này hiếm có ở người trưởng thành. Giảm hấp thụ sắt có thể là nguyên nhân thiếu sắt và thường do phẫu thuật dạ dày.

Thiếu máu hồng cầu non chứa sắt không Hemoglobin

Khi nhiễm độc chì là nguyên nhân, có thể điều trị bằng liệu pháp chelat hóa. Đôi khi bệnh giảm với những liều folat hoặc pyridoxin 200 mg/ngày, nhưng đa số không đáp ứng với điều trị.