- Trang chủ
- Sách y học
- Bệnh học ngoại khoa
- Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc
Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc
Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đại cương
Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái:
Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.
Hình thái mạn tính mà sự phát hiện thường là tình cờ qua thăm khám tổng quát như u nang thừng tinh.
Bào thai
Sự kéo dài của túi thừa phúc mạc ngang qua ống bẹn và đi ra ở lỗ bẹn ngoài đã tạo thành ống phúc tinh mạc. Ở bé trai ống phúc tinh mạc kéo dài cho đến bìu dái và tinh hoàn; ở bé gái ống tận cùng ở môi lớn và tạo thành ống Nuck.
Các thành phần dính ở mặt sau của ống phúc tinh mạc khác nhau giữa nam và nữ. Ở nam là ống dẫn tinh và bó mạch máu thừng tinh; ở nữ là dây chằng tròn.
Bình thường ở cuối thời kỳ bào thai ống phúc tinh mạc sẽ tự bít lại, riêng ở bé trai phần dưới sẽ tạo thành tinh mạc. Nếu vì lý do nào đó ống không bít được thì sẽ tạo ra các dạng bệnh lý sau đây:
Nếu lỗ thông rộng, ruột và các tạng trong bụng có thể chạy xuống vùng bẹn - bìu và gây ra bệnh lý thoát vị bẹn ở trẻ em.
Một sự bít không hoàn toàn từng nấc sẽ tạo thành bệnh lý tràn dịch khu trú hay u nang thừng tinh ở bé trai và u nang ống Nuck ở bé gái.
Một sự tụ dịch từ phúc mạc xuống màng tinh hoàn tạo thành bệnh lý tràn dịch màng tinh hoàn bẩm sinh.
Lâm sàng và chẩn đoán
Thoát vị bẹn ở bé trai
Tuổi phát hiện bệnh thường rất thay đổi
Có thể là ngay sau sinh nhất là ở trẻ đẻ non.
Có thể là sau vài tháng hoặc vài năm.
Có thể xảy ra sau một đợt trẻ ho nhiều hoặc rặn nhiều (táo bón).
Siêu âm có thể giúp chẩn đoán nếu cần trong những trường hợp mới xuất hiện và triệu chứng lâm sàng còn chưa rõ ràng.
Vị trí thoát vị
Thoát vị có thể một bên hoặc cả hai bên, phát hiện dưới dạng một khối u mềm nằm trên nếp bẹn, u thay đổi thể tích, thu nhỏ khi trẻ nằm và phình to khi khóc hoặc chạy nhảy. Thăm khám thường đẩy khối thoát vị lên dễ dàng. Kiểm tra lỗ thoát vị rộng so với phía đối diện.
Tiến triển
Ống phúc tinh mạc có thể tự bít trong những tháng đầu của đời sống. Sau 3 tháng tỷ lệ bít sẽ thấp dần cho đến 1 năm tuổi.
Biến chứng
Nghẹt cũng thường xảy ra vì ống phúc tinh mạc trong quá trình hình thành không phải là một ống thẳng mà có 3 chỗ hẹp tự nhiên: ở lỗ bẹn sâu, ở lỗ bẹn nông và ở chỗ vòng lên của ống để tạo thành tinh mạc.
Triệu chứng để phát hiện là khối thoát vị trở nên đau và không đẩy lên được nếu đến muộn hơn là bệnh cảnh của tắc ruột.
Thái độ xử trí
Trường hợp không nghẹt
Trước 1 tuổi:
Băng ép vùng bẹn với hy vọng ống phúc tinh mạc sẽ tự bít được. Biện pháp này trên thực tế rất khó thực hiện.
Điều trị các nguyên nhân gây tăng áp lực ổ bụng như: Ho, táo bón kéo dài, lỵ mót rặn nhiều, hẹp bao quy đầu gây tiểu khó.
Sau 1 tuổi:
Phẫu thuật thắt ống phúc tinh mạc sát lỗ bẹn sâu sau khi đã giải phóng tạng thoát vị. Vấn đề mổ kiểm tra ống phúc tinh mạc bên kia trong cùng một lần mổ cũng được các tác giả đặt ra để tránh bỏ sót thương tổn phối hợp.
Trường hợp nghẹt
Trước 1 tuổi:
Nếu bệnh nhi đến sớm chưa có biểu hiện tắc ruột thì tiền mê, đẩy thoát vị lên và băng ép.
Nếu đến muộn có dấu tắc ruột: phẫu thuật.
Sau 1 tuổi: Chỉ định phẫu thuật giải phóng tạng thoát vị và thắt ống phúc tinh mạc sát lỗ bẹn sâu không nên cố gắng bóc túi thoát vị như người lớn vì dễ gây thương tổn ống dẫn tinh và mạch máu thừng tinh; hơn nữa phần dưới ống phúc tinh mạc sẽ tiếp tục phát triển để thành tinh mạc về sau.
Thoát vị bẹn ở bé gái
Tỷ lệ gặp thường ít hơn so với bé trai nhưng lại đặt ra một vấn đề cần thảo luận trong điều trị đó là thoát vị buồng trứng kết hợp. Sau khi đẩy ruột lên có thể sờ thấy buồng trứng hiện diện dưới một khối nhỏ tròn lăn ở dưới tay và không đẩy lên được. Trong trường hợp này cần có chỉ định phẫu thuật sớm vì các lý do sau:
Buồng trứng đã xuống không mấy khi tự lên được, dễ phù nề và thiếu máu vì cuống bị kéo dài và căng làm cho buồng trứng ngày càng biến dạng và to mọng ra.
Loa vòi thường xuống và dính với phúc mạc của túi.
Giai đoạn phù nề chuyển nhanh sang hoại tử vì buồng trứng bị xoắn ở cuốn.
Đối với thoát vị ống Nuck, cổ túi có thể thắt chung với dây chằng tròn đã được cắt bỏ, lỗ bẹn được khâu kín hoàn toàn nên tỷ lệ tái phát hầu như không xảy ra.
Tràn dịch màng tinh hoàn bẩm sinh
Có thể xuất hiện ngay sau sinh hoặc sau một thời gian.
Bìu dái căng vừa không đau vì không sờ được tinh hoàn. Rọi ánh sáng xuyên thấu thể tích của bìu có thể thay đổi trong ngày; to lên khi đi lại chạy nhảy nhiều lần và thu nhỏ hơn khi nằm ngủ.
Sự thoái hồi tự nhiên của bệnh có thể xảy ra trong những tháng đầu của đời sống.
Chỉ định phẫu thuật của trẻ sau 2 tuổi, hút sạch dịch, thắt lỗ thông của ống phúc tinh mạc hoặc mở cửa sổ màng tinh hoàn.
U nang thừng tinh
Đó là một khối tròn hoặc bầu dục, thể tích thay đổi, nằm trên đường đi của thừng tinh. Khối thường trơn láng, không đau, nắn không nhỏ lại vì chiếu ánh sáng xuyên thấu. Tinh hoàn sờ thấy rõ ở bên dưới của khối.
Sự thoái hồi của bệnh cũng được ghi nhận.
Sự kết hợp giữa u nang thừng tinh, thoát vị bẹn rất thường gặp.
Chỉ định phẫu thuật ở trẻ lớn - bóc bỏ u nang thường đơn giản.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo
Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.
Bệnh học ngoại khoa sỏi ống mật chủ
Khi tắc mật, dịch mật không xuống tá tràng mà ứ đọng trong gan. Sắc tố mật, muối mật vào máu, bilirubin máu tăng cao, do sắc tố mật có màu vàng nên da, giác mạc mắt có màu vàng.
Lâm sàng và điều trị thời kỳ suy mòn của bệnh bỏng
Nếu tính cả thải Protein qua phân, nước tiểu... mất Protein có thể đạt tới 100-200g/24h. Bỏng sâu mất Protein qua vết bỏng đạt 10mg/cm2/24h.
Bệnh học ngoại gẫy hai xương cẳng tay
Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại
Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa
Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của đường tiêu hoá.
Bệnh học ngoại lao xương
Lao xương giống viêm xương là hay gây tổn thương ở người trẻ, nhưng khác viêm xương, tổn thương của lao thường bắt đầu ở xương xốp sau đó lan ra xung quanh.
Công tác thay băng điều trị bỏng
Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng hai ngày một lần 2. kỹ thuật thay băng.
Bệnh học ngoại gẫy cổ xương đùi
Gãy cổ xương đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển. Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông). Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.
Bệnh học ngoại chấn thương thận
Chấn thương thận bao gồm tất cả các thương tổn của nhu mô thận, đường bài xuất nước tiểu trên và cuống thận. Giới nam thường bị hơn nữ, chiếm 75-80%, do đặc trưng về nguyên nhân của loại chấn thương này.
Bệnh học ngoại phình động mạch ngoại biên
Phình động mạch ngoại biên thường ít hơn phình động mạch chủ. Có nhiều nguyên nhân gây phình động mạch ngoại biên, trong đó nguyên nhân do xơ vữa động mạch thường gặp nhất.
Bệnh học ngoại ung thư bàng quang
U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.
Bệnh học ngoại khoa thủng dạ dày tá tràng
Thủng ổ loét dạ dày - tá tràng là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Chẩn đoán thường dễ vì trong đa số trường hợp các triệu chứng khá điển hình, rõ rệt.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị bẹn
Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các điểm yếu này có thể là bẩm sinh hay mắc phải.
Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú
Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.
Bệnh học ngoại dị dạng bẩm sinh vùng rốn
Thoát vị cuống rốn là một dị dạng bẩm sinh trong đó một số tạng bụng trồi ra ngoài ổ bụng qua lỗ hổng của vành đai rốn tạo thành một khối phình được bọc kín bởi lớp phúc mạc nguyên thuỷ và lớp màng ối ở vùng rốn.
Phẫu thuật điều trị bỏng
Khớp lớn của chi bị nhiễm trùng nặng do bỏng, là nguốn gốc của nhiễm trùng toàn thân, không thể sử dụng phẫu thuật mở bao khớp, dẫn lưu hay cắt đoạn.
Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân
Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.
Bệnh học ngoại ung thư phổi
Ung thư phổi là bệnh lý rất hay gặp trong phẫu thuật lồng ngực, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong những ung thư nói chung. Tỷ lệ bệnh ngày càng tăng do ngày càng có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư.
Bệnh học ngoại vết thương ngực
Các rối loạn hô hấp tuần hoàn trong vết thương ngực hở do hậu quả hô hấp đảo ngược và lắc lư trung thất dẫn đến thiếu O2 trầm trọng, tình trạng toàn thân của bệnh nhân thay đổi nhanh chóng.
Bệnh học ngoại viêm xương
Viêm xương có thể tự nhiên, nhưng chấn thương đóng vai trò nào đó của sự khu trú tắc mạch xương trên một cơ quan bị nhiễm khuẩn.
Bệnh học ngoại xơ vữa động mạch
Tổn thương khu trú ở lớp nội mạc, lớp nội mạc dày lên vừa phải. Các tế bào đặc trưng có chứa các tổ chức mỡ (tế bào bọt). Lớp áo giữa và áo ngoài bình thường.
Bệnh học ngoại u trung thất
U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.
Bệnh học ngoại khoa ung thư trực tràng
Ung thư trực tràng là một bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Khoảng 8000 trường hợp ung thư trực tràng ở Pháp mỗi năm. Tỷ lệ nam/nữ là 1,5.
Bệnh học ngoại khoa bỏng
Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện
Bệnh học ngoại chấn thương mạch máu ngoại biên
Hậu quả lâm sàng của chấn thương động mạch không hằng định, nhưng khi có hậu quả trên lâm sàng là một tiêu chuẩn nặng của chấn thương động mạch.
