- Trang chủ
- Sách y học
- Các bài thuốc đông y hiệu nghiệm
- Ngũ linh tán
Ngũ linh tán
Thành phần
1. Bạch truật 8-12 gam.
2. Quế chi (hoặc Nhục quế) 4-8 gam.
3. Trư linh 12-16 gam.
4. Trạch tả 12-16 gam.
5. Phục linh 12-20 gam.
Cách dùng
Nguyên là thuốc bột mỗi lần 8-12 gam ngày 2 lần uống lúc đói với nước chín âm ấm. Công dụng: Thông dương, hóa khí, lợi thủy.
Chủ trị
Thủy thấp đình tụ, tiểu tiện bất lợi, thủy thũng, rêu lưỡi hoạt nhuận hoặc có ngực tức, khát muốn uống, nhưng uống vào nôn ngay.
Giải bài thuốc
Trư linh, Phục linh, Trạch tả lợi thủy thảm thấp, Bạch truật kiện tỳ vận hóa thấp khiến thủy thấp, không đình tụ được. Quế chi tân ôn thông dương giúp bàng quang khí hóa. Khí đã hóa thì thủy phải hành và giúp cho các vị thuốc thảm thấp lợi thủy phát huy tác dụng. Vì thế đây là phương tễ chủ yếu lấy sự lợi tiểu mà tiêu trừ được thấp tà.
Gia giảm
Phương này bỏ Quế chi gọi là Tứ linh thang là loại thuốc kiện tỳ thảm thấp, để chữa chứng tỳ hư thấp trở, tiểu tiện xẻn, đại tiện nhão. Phương này gia Nhân trần gọi là Nhân trần ngũ linh tán, trị thấp nhiệt hoàng đản, tiểu tiện vàng đỏ, có tác dụng thoái hoàng lợi thủy. Phương này gia Đảng sâm gọi là Xuân trạch thang dùng chữa toàn thân khí hư tiểu tiện không thông thậm chí bế tiểu tiện nhất định hiệu quả. Ngoài ra khi chữa thủy thũng còn nên hợp bài này với bài ngũ bì ám thì sức lợi thủy tốt hơn.
Phụ phương
Trư linh thang:
Gồm Trư linh, Phục linh, Trạch tả, A giao, Hoạt thạch hợp thành.
Có công năng tư âm thanh nhiệt, lợi thủy, dùng chữa chứng huyết lâm, niệu huyết, tiểu tiện xẻn đỏ mà đau, lưỡi đỏ, miệng khát, tâm phiền của bệnh âm hư, cũng có tác dụng lợi thủy như bài Ngũ linh tán, nhưng ngũ linh có tác dụng trị dương khí bất thông, thủy thấp nội đình., còn Trư linh thang trị chứng nhiệt và thủy thấp câu kết mà hao tổn âm dịch, cho nên một mặt dùng nhị linh, Trạch tả, Quế chi, Bạch truật để thông dương hóa khí, lợi thủy, một đàng dùng nhị linh Trạch tả phối A giao Hoạt thạch tư âm thanh nhiệt mà lợi thủy.
Thông quan hoàn: (Tư thận hoàn)
Gồm Tri mẫu, Hoàng bá (sao muối), Nhục quế tạo thành.
Ngày uống 2 lần mỗi lần 12 gam lúc đói với nước chín.
Thuốc này có công năng thanh thấp nhiệt hạ tiêu, giúp bàng quang khí hóa. Do thấp nhiệt kết ở bàng quang bí đái không thông, bụng dưới chướng đầy, niệu đạo rít mà đau. Phương này dùng tri bá thanh thấp nhiệt hạ tiêu, sao muối để dẫn thuốc hạ hành, Nhục quế làm tá để trợ bàng quang khí hóa. Ngũ linh tán lấy quế chi hợp nhị linh Trạch tả để đạt mục đích thông dương thảm thấp mà lợi thủy. Còn phương này lấy Nhục quế hợp tri bá đạt mục đích thông dương giáng hỏa mà lợi thủy. Đúng là biến phương của Ngũ linh. Nếu tiểu tiện bất thông mà lại thương âm, lưỡi đỏ khô, khát muốn uống thì nên tư âm lợi thủy, hoặc tư âm giáng hỏa thì nên dùng Trư linh thang hoặc Tri bá địa hoàng thang, không nên vì cái tên “Tư thận” mà dùng lầm.
Bài mới nhất
Quy tỳ thang
Bổ trung ích khí thang
Lục vị địa hoàng hoàn
Bổ dương hoàn ngũ thang
Độc hoạt ký sinh thang
Thân thống trục ứ thang
Thiên ma câu đằng ẩm
Các loại bài thuốc đông y và cách dùng
Hữu quy hoàn
Kiện tỳ ích khí thang
Đào hồng tứ vật thang
Tả quy hoàn
Huyết phủ trục ứ thang
Kim quỹ thận khí hoàn
Tứ vật thang
Dùng sâm, truật, linh, thảo để kiện tỳ ích khí, gia Hoàng kỳ để tăng thêm công hiệu ích khí, Táo nhân, Viễn chí, Quế viên để dưỡng tâm an thần
Bài này là phương thuốc tiêu biểu về thăng dương (thăng đề) ích khí. Hoàng kỳ, Nhân sâm là vị thuốc chủ yếu dùng để cam ôn ích khí.
Trong quá trình mắc bệnh mạn tính thấy can thận bất túc, thận âm khuy tổn, lưng đầu gối đau thắt, hoa mắt, ù tai, di tinh, tiêu khát và trẻ em phát dục không tốt.
Hoàng kỳ dùng sống, lượng nhiều thì lực chuyên mà tính tẩu, đi khắp toàn thân, đại bổ nguyên khí mà chữa chứng này (mềm yếu) hợp với Quy vĩ, Xích thược, Địa long.
Nếu thiên hàn, tăng ôn dược, còn gia chế Phụ tử, thiên nhiệt nên tăng Tần giao, Địa hoàng, Xích thược
Phương này dùng Đào hồng Đương quy hoạt huyết hóa ứ. Ngũ linh chi, Địa long, khứ ứ thông lạc, Xuyên khung
Chủ trị can dương Thượng xung gây ra can phong nội động, huyễn vựng, đau đầu, đầu lắc, giật mình, mất ngủ.
Đem vị thuốc tán nhỏ ra, rồi dùng mật hoặc hồ ngào với bột thuốc viên lạii gọi là thuốc viên (hoàn). Khi dùng thuận tiện nhưng vì trong thuốc có cả bã nên hấp thu chậm, thường dùng chữa bệnh thư hoãn.
Bài này từ Phụ quế bát vị hoàn biến hóa đi, tức là lấy Tả quy hoàn làm cơ sở, bỏ Ngưu tất, cao Quy bản, gia thêm Phụ tử, Nhục quế, Đương quy, Đỗ trọng.
Bài này thường dùng trong lâm sàng là phương thuốc cơ sở của kiện tỳ ích khí, nhiều bài thuốc kiện tỳ bổ khí khác, thường từ đây mà biến hóa.
Phương này là Tứ vật thang gia Hồng hoa, Đào nhân. Tứ vật thang dưỡng huyết, hoạt huyết phối ngũ với Đào hồng để phá ứ.
Bài này từ Lục vị địa hoàng hoàn biến hóa ra không dùng Đan bì lương huyết tả hỏa và Phục linh, Trạch tả khô thấm lợi thủy mà dùng Thỏ ty
Phương này là hợp phương của Đào hồng tứ vật thang với Tứ nghịch tán (Sài, thược, chỉ thực, Cam thảo) lại gia thêm Cát cánh, Ngưu tất
Bài này dùng phụ, quế làm thuốc chủ là phương thuốc bổ thận được ứng dụng sớm nhất. Lục vị địa hoàng hoàn và các loại Địa hoàng hoàn khác đều từ bài thuốc này biến hóa ra.
Từ vật thang là phương thuốc bổ huyết kèm thêm hoạt huyết, người xưa nói nó là “phương thuốc chuyên về điều huyết can kinh”.