Ngân kiều tán

2013-06-06 01:41 PM

Bài thuốc này rất hay dùng khi chữa bệnh là một bài tiêu biểu về tân lương giải biểu. Dùng Đậu cổ, Ngưu bàng tử, Kinh giới.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thành phần

1.  Ngân hoa             40 gam.

2.  Đậu cổ                  20 gam.

3.  Kinh giới              16 gam.

4.  Cam thảo sống   5 gam.

5.  Liên kiều              40 gam.

6.  Ngưu bàng          20 gam.

7.  Kiết cánh              24 gam.

8.  Lá tre                     16 gam.

Cách dùng

Định lượng vị thuốc nói trên là dùng lúc làm thuốc tán. Thuốc tán, mỗi lần dùng 24 gam, lấy thêm 2 nhánh Lô căn tươi sắc lên khi hơi thơm bốc thì lấy ra uống. Đừng đun quá để được khinh thanh phát tán. Người bệnh nặng, ngày uống 3 lần đêm 1 lần, bệnh nhẹ ngày 2 lần đêm 1 lần. Ngày nay dùng làm thuốc thang, đem sắc uống, ngày dùng 1-2 thang chia làm 2 - 4 lần uống.

Công dụng

Tân lương thấu biểu; thanh nhiệt giải độc.

Chữa chứng bệnh

Mới bị ngoại cảm nhiệt, lại phát nhiệt rét thì không ra mồ hôi hoặc ra ít, đau đầu, ho, họng đau, rêu lưỡi mỏng trắng, hoặc mép lưỡi ửng đỏ, mạch phù sác. Hiện nay chữa bệnh nếu ngoại cảm dẫn đến phát nhiệt, thường lấy bài thuốc này gia giảm thêm vị để dùng, chữa đường hô hấp trên bị cảm nhiễm tương đối tốt.

Giải bài thuốc

Bài thuốc này rất hay dùng khi chữa bệnh là một bài tiêu biểu về tân lương giải biểu. Dùng Đậu cổ, Ngưu bàng tử, Kinh giới, Bạc hà giải biểu phát hãn, khu tà ngoại xuất. Dùng Ngưu bàng tử, Kiết cánh, Sinh cam thảo để thanh tuyên phế khí mà lợi yết hầu để chữa ho, đau họng; Liên kiều, Ngân hoa, Lá tre để thanh nhiệt mà giải nhiệt độc; Lô căn sinh tân chỉ khát mà trừ vị nhiệt. Vì vậy, đặc điểm bài thuốc này là tân lương thấu phát; mới mắc bệnh ngoại cảm nhiệt, tà ở phế vệ đều dùng được.

Cách gia giảm

Rõ ràng là biểu chứng, không ra mồ hôi, rét dữ mà nhiệt cao có thể thêm Khương hoạt Tây hà liễu để tăng thêm tác dụng thấu biểu đạt tà; ra mồ hôi mà không giải nhiệt, có thể bỏ Kinh giới, Bạc hà thêm Hoàng cầm, Thạch cao; Phế khí không thông mà ho nhiều, có thể thêm Tiền hồ, Hạnh nhân, Tượng bối để thanh tuyên phế khí, mới bị lên sởi có thể thêm Phù bình, Thiền y để giải sởi liễn tà, cuống họng sưng đau nặng có thể thêm Xạ can, Mã bột, Qua kim đăng, Bản lam căn để giải độc lợi hầu, thấp cản trung tiêu mà ngực tức, đầy hơi muốn nôn có thể bỏ Cam thảo, Lô căn mà thêm Hậu phác, Hoắc hương, Chỉ xác để hóa thấp sướng trung; chế vị nhiệt thịnh mà chảy máu mũi, khạc ra máu có thể thêm Mao căn, Hoàng cầm, Sơn chi để mát huyết thanh nhiệt; nhiệt thương tân dịch mà miệng khát lưỡi khô có thể thêm Thiên hoa phấn để sinh tân giải khát, ăn bị trệ mà bụng chướng miệng hôi, đi tả hoặc bí tiện có thể thêm Chỉ thực, Lục thần khúc, Sơn tra, Mạch nha để tiêu thực dẫn trệ.

Bài viết cùng chuyên mục

Thiếu phúc trục ứ thang

Phương này lấy bài Thất tiếu tán (Bồ hoàng, Ngũ linh chi) phối ngũ với Khung, Quy làm chủ yếu, lại gia Huyền hồ.

Lục vị địa hoàng hoàn

Trong quá trình mắc bệnh mạn tính thấy can thận bất túc, thận âm khuy tổn, lưng đầu gối đau thắt, hoa mắt, ù tai, di tinh, tiêu khát và trẻ em phát dục không tốt.

Hắc tích đan

Hắc tích giáng nghịch khí trừ đờm dãi, Lưu hoàng bổ mệnh môn hỏa tiêu âm hàn. Hai vị dùng để trấn nhiếp phù dương là thuốc chủ yếu để ôn giáng nghịch khí.

Xuy nhị hồng miên tán

Dùng bông thuốc lau sạch lỗ tai, rồi cho bột thuốc này vào. Ngày 2 đến 3 lần. Công dụng: Bài nùng tiêu thũng, giảm đau giảm ngứa.

Giao ngải thang

Chủ phương trị chứng băng lậu và an thai cho phụ nữ. Quy, Địa, Khung, Thược là Tứ vật thang, công dụng bổ huyết điều kinh.

Độc hoạt ký sinh thang

Tam tý thang: Tức là bản phương bỏ Ký sinh, gia Hoàng kỳ, Tục đoạn, tức là lấy bài Thập toàn đại bổ làm cơ sở và gia thuốc bổ can thận, khư phong thấp mà hợp thành. Cách trị cũng như phương trên, nhưng có Hoàng kỳ thì tác dụng bổ hư càng mạnh.

Kim hoàng tán (Như ý kim hoàng tán)

Dùng nước trấp, hành sống hoặc rượu, dầu vừng, mật, Ngân hoa lộ, Cúc hoa diệp, Ty qua diệp giã lấy nước trấp... hòa thuốc mà đắp vào. Hoặc dùng phàm sĩ lâm 8/10, Kim hoàng tán 2/10 hòa đều thành cao mà đắp.

Hoắc hương chính khí tán

Cảm phải thử thấp, ngoài sợ lạnh phát sốt đau đầu (biểu chứng), trong thì ngực sườn đầy tức lợm lòng kém ăn, hoặc ỉa chảy, miệng nhạt miệng ngọt, rêu nhớt là do thấp trọc gây trở ngại.

Tả phế tán

Bài này dùng Tang bạch bì có được tính tân cam mà hàn, giỏi tả phế hỏa để khỏi ho, thở, thanh phế khí mà lợi thủy khử đờm.

Quất bì trúc nhự thang

Bài này dùng Nhân sâm, Cam thảo, Đại táo bổ vị hư, Trần bì hòa vị, lý khí, Trúc nhự thanh vị nhiệt, giáng nghịch khí phối hợp tạo thành.

Tuyên phức đại giả thang

Bài này trong ứng dụng lâm sàng nếu thấy rêu lưỡi nhờn, thiên về đàm thấp có thể gia Hậu phác, Phục linh, Trần bì.

Cửu tiên tán

Phương này dùng Nhân sâm bổ phế khí, A giao dưỡng phế âm, phụ trợ có Tang bạch bì, Khoản đông hoa tư phế; Ngũ vị tử, Ô mai, Anh túc xác liễm phế.

Đào hoa thang

Lấy nửa phần xích thạch chỉ 32-16 g và hai vị Can khương, gạo tẻ cho vào nước chưng kỹ. Khi nào gạo chín nhừ, thì chắt nước ra lấy nước thuốc đó hòa với nửa phần xích thạch chỉ còn lại (nhớ tán bột mịn) rồi chia làm 2 lần uống trong 1 ngày.

Phế lao nghiệm phương

Đan sâm hoạt huyết, khử ứ, cải thiện sự tuần hoàn máu, dùng để phù chính. Hoàng cầm thanh phế nhiệt, Bách bộ nhuận phế, chỉ khái là thuốc trị ho lao.

Ngọc bình phong tán

Phương này dùng Hoàng kỳ bổ khí, phò tá có Bạch truật kiện tỳ, cố biểu mà sáp được chứng tự ra mồ hôi. Phòng phong phối ngũ Hoàng kỳ, dẫn Hoàng kỳ ra biểu mà chế ngự phong tà.

Tăng dịch thang

Bài này nguyên chữa do nhiệt bệnh mà hao tổn tân dịch dẫn đến đại tiện bí kết khác với bài Thừa khí thang công hạ, thích hợp với chứng.

Ngọc lộ tán (Nghiệm phương)

Có thể dùng dầu vừng, nước Cúc hoa, nước Ngân hoa, nước sôi để nguội hòa thuốc trên để đắp vào chỗ đau. Cũng có thể dùng Va dơ lin (phàm sĩ lâm) 8/10, Ngọc lộ tán 2/10 điều lẫn thành cao mà đổ.

Bạch đầu ông thang

Bài này dùng Bạch đầu ông để thanh nhiệt ở huyết phận, cùng với vị Tần bì để nhuận mát, 2 vị này là thuốc chủ yếu để lương huyết chỉ lỵ.

Mộc hương binh lang hoàn

Bài này dùng Mộc hương, Binh lang, Hương phụ, Thanh bì, Trần bì, Chỉ xác để hành khí, lợi khí, phá khí, đạo trệ. Tam lăng.

Ngô thù du thang

Chữa chứng bệnh Vị khí hư hàn, can vị bất hòa, nôn khan, nôn ra dãi hoặc nước chua, bụng hông đầy đau, hoặc đau đầu, lưỡi không hồng, không nhiệt.

Cấu tạo một bài thuốc đông y

Căn cứ đặc điểm của bệnh, cân nhắc chọn vị thuốc chủ, chọn những vị thuốc khác, ghép vào để vị thuốc chủ phát huy được tác dụng cần thiết.

Đại hoàng giá trùng hoàn

Phương này chữa huyết khô nội kết thể hư mà trạng thực, ứ huyết không ra thì tân huyết không sinh, bổ cũng không ích gì.

Đương quy lục hoàng hoàn

Bài này dùng “Tam hoàng” tả hỏa, “Nhị địa” tư âm, Hoàng kỳ, Đương quy bổ khí huyết, cùng phối hợp chữa, có tác dụng tư âm thanh hỏa.

Kim quỹ thận khí hoàn

Bài này dùng phụ, quế làm thuốc chủ là phương thuốc bổ thận được ứng dụng sớm nhất. Lục vị địa hoàng hoàn và các loại Địa hoàng hoàn khác đều từ bài thuốc này biến hóa ra.

Dưỡng tạng thang

Phương này lấy các vị thuốc cố sáp chỉ tả làm chủ dược. Cho nên các chủ vị Anh túc xác, Kha tử là sáp dược đặc biệt dùng nhiều, lại phối ngũ với sâm, truật, thảo để bổ khí kiện tỳ.