- Trang chủ
- Sách y học
- Các bài thuốc đông y hiệu nghiệm
- Chỉ truật hoàn
Chỉ truật hoàn
Bài này dùng Bạch truật kiện tỳ, Chỉ thực tiêu đầy chướng nhưng liều lượng Bạch truật gấp đôi Chỉ thực.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thành phần
1. Chỉ thực 1 lạng.
2. Lá sen bao cơm nung khô, nghiền nhỏ làm hoàn.
3. Bạch truật 2 lạng
Cách dùng
Mỗi lần dùng 6-12 gam, ngày 2 lần uống với nước đun sôi.
Công dụng
Kiện tỳ vị, tiêu đầy chướng.
Chữa chứng bệnh
Tỳ vị hư nhược, tiêu hóa không tốt, ẩm thực đình trệ, bụng đầy chướng, đại tiện nhão hoặc không thông sướng.
Giải bài thuốc
Bài này dùng Bạch truật kiện tỳ, Chỉ thực tiêu đầy chướng nhưng liều lượng Bạch truật gấp đôi Chỉ thực, dùng lá sen có hương thơm bọc cơm nung khô chế thành hoàn là phương thuốc thanh dương đi lên mà hòa dưỡng vị khí, cho tiêu ra ngoài, với người tỳ vị yếu, ăn uống đình trệ, dưới vùng tim đầy chướng thì bổ mà không trệ khi, tiêu mà không tổn thương chính.
Hiện nay bài thuốc chữa bệnh rộng dạ dày, sa dạ dày cũng có hiệu quả nhất định.
Cách gia giảm
Gia Lục khúc, Mạch nha gọi là Khúc mạch chỉ truật hoàn chữa bụng ăn uống quá nhiều, bụng chướng đầy khó chịu. Gia Bán hạ, Trần bì gọi là Quật bán chỉ truật hoàn, chữa tỳ hư đờm trệ, ăn uống không tiêu, khí trệ đầy chướng, gia Sa nhân, Mộc hương gọi là Hương sa chỉ truật hoàn có tác dụng phá khí trệ, tiêu đồ ăn, khai vị ăn ngon.
Phụ phương
Chỉ truật thang:
Dùng 7 quả Chỉ thực, Bạch truật 2 lạng (theo liều lượng của sách Kim quỹ yếu lược về sau xuống 1 lạng, hiện nay dùng 12 gam).
Nguyên chữa “dưới tim rắn chắc, to như cái thúng, do thủy ẩm gây nên”, chủ trị chứng tỳ nhược khí trệ, mất sự tiêu hóa, dẫn đến thủy bĩ kết dưới vùng tim nên Chỉ thực tiêu bĩ, Bạch truật kiện tỳ. Bài này vị thuốc cơ bản giống bài Chỉ truật hoàn, nhưng liều lượng Chỉ thực gấp đôi Bạch truật. Về sau Trương Nguyên Tố cho rằng Chỉ thực tước mòn, không nên dùng nhiều, dùng lâu nên đảo ngược liều lượng lại để Bạch truật gấp đôi Chỉ thực đổi thang thành hoàn gọi là Chỉ truật hoàn. Xưa nay cho rằng Chỉ truật hoàn bổ nặng hơn tiêu so với bài Chỉ truật thang nguyên gốc hợp lý hơn nhưng căn cứ dược lý hiện đại thực nghiệm, Chỉ thực có tác dụng làm tăng sức co bóp của vị tràng nên khi chữa sỏi mật, sa dạ dày, sa tử cung và tràng vị mất chức năng điều hòa thì tất phải dùng nó làm thuốc chủ. Cái gọi là “thủy ẩm” mà bài thuốc này điều trị biểu hiện lâm sàng sa dạ dày, nguyên bài thuốc có chú thích rõ sau khi dùng thuốc trong bụng phải mềm mới là biểu hiện có hiệu quả. Những năm gần đây kết quả lâm sàng cho biết, bài thuốc này chữa sa dạ dày hiệu quả của nó tốt hơn Chỉ truật hoàn. Vì vậy, có thể cho rằng, nếu chữa sa dạ dày nên dùng nhiều Chỉ thực, Chỉ thực tiêu bĩ có Bạch truật phù trợ, là nặng bổ hơn tiêu, có thể tiêu mà không thương tổn chính, nếu chữa tiêu hóa không tốt nên dùng nhiều Bạch truật, Bạch truật kiện tỳ có Chỉ thực phù trợ là nặng tiêu hơn bồ, có thể bổ mà không trệ khí.
Bài viết cùng chuyên mục
Xuyên khung trà điều tán
Đặc điểm của phương này là tập trung nhiều loại thuốc khu phong tán hàn, lấy sự tán phong tà để chữa nhức đầu.
Bài xung cổ thang
Tính chất bài thuốc bình hòa, trong khi chữa thường ghép các vị giải biểu khác và các vị tuyên phế hóa thấp, dùng chữa bệnh ngoại cảm nhiệt ban đầu.
Đại hàm hùng thắng
Bài này dùng Đại hoàng, Mang tiêu, Cam toại đều là những vị thuốc tả hạ tương đối mạnh nên gọi là phương thuốc tuấn tả trục thủy.
Chích cam thảo thang
Bài này dùng Chích cam thảo, Nhân sâm để bổ ích tâm khí vì dùng nhiều Cam thảo nên gọi là Chích cam thảo thang. A giao.
Tiêu kim đan
Các vị nghiền nhỏ dùng bột gạo nếp viên thành hoàn. Với liều lượng phương trên chế được 500 viên. (ở Thượng Hải hay chế thành viên dẹt gọi là phiến).
Đại hoàng phụ tử thang
Bài này là phương thuốc tiêu biểu về cách ôn hạ. Đại hoàng tuy tính chất thuộc khổ hàn như sau khi ghép với Phụ tử tính chất bản ôn đại nhiệt.
Thanh đại tán (Khẩu cam dược)
Trước hết rửa sạch khoang miệng, cho thuốc bột trên vào, thổi vào chỗ có bệnh, mỗi ngày 2-3 lần. Nếu thuốc có vào yết hầu, có thể nuốt được.
Tịch ôn thang
Chủ trị trúng thử phát sa, lợm lòng, đau bụng thổ tả, hoặc muốn nôn không nôn được, muốn ỉa không ỉa được, tâm phiền tứ chi giá lạnh.
Xuy nhị hồng miên tán
Dùng bông thuốc lau sạch lỗ tai, rồi cho bột thuốc này vào. Ngày 2 đến 3 lần. Công dụng: Bài nùng tiêu thũng, giảm đau giảm ngứa.
Tứ nghịch thang
Bài này là phương thuốc tiêu biểu hồi dương cứu nghịch. Phụ tử đại tên đại nhiệt, là thuốc chích để hồi dương, khử hàn, tác dụng đến toàn thân, sức nó nhanh mà không lưu lâu.
Sâm phu thang
Bài này là đại ôn đại bổ, hồi dương cứu thoát dương, Nhân sâm đại bổ nguyên khí, Phụ tử ôn tráng chân dương, hai vị ghép với nhau làm phấn chấn dương khí, ích khí cố thoát.
Miết giáp tiễn hoàn
Các vị nghiền thành bột, lấy một ít đất lòng bếp lẫn tro đang nóng đổ rượu vào để tro hút rượu độ nửa giờ, rồi nướng Miết giáp vào đó. Xong đem hòa với thuốc làm hoàn. Mỗi ngày 3 lần. Mỗi lần 4 gam nuốt, hoặc dùng 20 gam thuốc ấy sắc uống.
Đại hoàng mẫu đơn thang
Chứng Trường ung, theo y học của Tổ quốc cho rằng do nhiệt độc ủng kết trong ruột, huyết ứ không tán mà thành bệnh. Bản phương dùng Đại hoàng thanh nhiệt giải độc, tả hỏa.
Thanh chấn thang
Phương này dùng Thăng ma thăng thanh dương, Thương truật tán phong khứ hàn thấp, Bạc hà thanh đầu mắt, hỗ trợ cho Thăng ma.
Ô đầu thang
Phương này dùng Ô đầu ôn dương làm chủ dược phụ với Ma hoàng tán hàn giảm đau có hiệu quả, dùng chữa các chứng tý thiên về hàn. Nhưng khi dùng các vị Xuyên ô, Thảo ô, Phụ tử để trị thống tý thường phải dùng thuốc bổ khí dưỡng huyết làm phụ trợ.
Thanh táo cứu phế thang
Đây là phương chủ yếu trị táo nhiệt thương phế. Tang diệp, Thạch cao thanh táo nhiệt. A giao, Mạch đông, Hạnh nhân dưỡng phế âm.
Tuyên phức đại giả thang
Bài này trong ứng dụng lâm sàng nếu thấy rêu lưỡi nhờn, thiên về đàm thấp có thể gia Hậu phác, Phục linh, Trần bì.
Thanh vi tán
Bản phương dùng Sinh địa, Đan bì lương huyết giải nhiệt, Hoàng liên thăng mà thanh nhiệt giải độc, Đương quy hòa huyết dưỡng huyết.
Thạch cao thục địa tiễn
Bản phương dùng Thạch cao, Tri mẫu, thanh bị vị hỏa, Thục địa tư bổ thận âm, Mạch đông dưỡng âm thanh nhiệt, Ngưu tất dẫn nhiệt đi xuống.
Hòe hoa tán
Hòe hoa thanh đại tràng thấp nhiệt là vị thuốc chủ yếu trị đại tiện ra máu. Thêm 2 vị Trắc bá, Kinh giới đều có tác dụng cầm máu (Kinh giới phải sao đen).
Ngọc khu đan khai khiếu
Trừ Xạ hương ra, trước hết nên nghiền nhỏ Chu sa, Hùng hoàng, rồi cho bột các vị thuốc khác vào hòa đều và nghiền lại cho cực nhỏ, sau cùng mới cho Xạ hương vào nghiền đều thành tễ.
Huyết phủ trục ứ thang
Phương này là hợp phương của Đào hồng tứ vật thang với Tứ nghịch tán (Sài, thược, chỉ thực, Cam thảo) lại gia thêm Cát cánh, Ngưu tất.
Thiên chủy cao (Nghiệm phương)
Trước hết lấy Tỳ ma tử nhục cho vào cối giã nát, rồi cho dần dần bột Tùng hương vào đánh cho thật đều, xong cho dần dần bột Khinh phấn, Đông đan, Ngân chu. Sau cùng, mới cho dầu trà (trà du) vào đảo giả độ nghìn chày F(1) luyện thành thuốc cao
Thường sơn ẩm
Phương này tập trung rất nhiều vị thuốc cắt cơn: Thường sơn, Thảo quả, Binh lang, Tri mẫu, Ô mai, Bối mẫu. Cổ nhân phân tích công năng cắt cơn của các vị thuốc có khác nhau.
Tuyết cánh thang
Hải triết, Bột tể nhuận hoạt hàn lương để hóa đàm nhuyễn kiên, tán kết, thanh hỏa. Hai vị này tuy rất là đạm bạc.
