- Trang chủ
- Sách y học
- Các bài thuốc đông y hiệu nghiệm
- Âm giác phục mạch thang
Âm giác phục mạch thang
Bản phương thuần thuốc nhu nhuận, nên trong quá trình ngoại cảm nhiệt, nếu là nhiệt quá thịnh mà kinh quyết, nhiệt cực động phong là có thực chứng nên dùng Thanh vinh thang, hoặc Hoàng liên a giao thang gia Linh dương, Câu đằng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thành phần
1. Mẫu lệ 40 gam.
2. Miết giáp 20-40 gam.
3. Quy bản 20-40 gam.
4. Chích thảo 12 gam.
5. Đại sinh địa 20-40 gam.
6. Sinh bạch thược 12-24 gam.
7. Mạch đông 12-24 gam.
8. Ma nhân 12 gam
9. A giao 16 gam
Cách dùng
Ngày dùng 1 thang sắc nước chia 2 lần uống.
Công dụng
Tư dưỡng tinh huyết, dục âm tiềm dương tức phong, trấn kinh.
Chủ trị
Sau khi ngoại cảm nhiệt bệnh, có chứng thương âm lưỡi đen, mạch tế sác vô lực, lòng bàn tay bàn chân nóng, kinh quyết, hoặc tay chân run rẩy, hồi hộp, hoặc tạp bệnh có chứng can thận bất túc, âm hư dương cang, xuất huyết, đầu váng mắt hoa, tai ù hạng khô, mạch tế huyền, lưỡi khô, trơn bóng.
Giải bài thuốc: Đây là phục mạch thang (Chích thảo, Can địa hoàng, Sinh bạch thược, Mạch đông, A giao, Ma nhân) gia Mẫu lệ, Miết giáp, Quy bản. Dùng Chích thảo phục hồi mạch. Phò tá có các thuốc tư nhuận, bổ âm lui được hư nhiệt. Lại gia thêm Mẫu lệ, Miết giáp, Quy bản để tiềm dương trấn kinh gọi là dục âm (nuôi dưỡng âm) tiềm dương, dưỡng huyết an thần, trị huyết hư âm tổn, phong dương vọng động.
Gia giảm
Bản phương thuần thuốc nhu nhuận, nên trong quá trình ngoại cảm nhiệt, nếu là nhiệt quá thịnh mà kinh quyết, nhiệt cực động phong là có thực chứng nên dùng Thanh vinh thang, hoặc Hoàng liên a giao thang gia Linh dương, Câu đằng, Tử tuyết đan, không nên dùng phương này, Trong phương, Quy bản, Miết giáp, Mẫu lệ, trừ Mẫu lệ ra, đều là vị nhu nhuận cho nên bất tất dùng cả. Nhu nhị giáp phục mạch là phương này bỏ Quy bản. Nhất giáp phục mạch thang là phương này bỏ Quy bản, Miết giáp, Ma nhân. Nếu mạch lui, tinh thần mệt mỏi muốn hư thoát, nên gia Ngũ vị tử, Kê tử hoàng gọi là “đại định phong châu” (hạt ngọc quí định được phong) có thể gia cả Nhân sâm (tức là Sinh mạch tán hợp dụng).
Phụ phương:
Linh dương giác thang:
Linh phương giác, Quy bản, Sinh địa, Đan bì, Bạch thược, Sài hồ, Bạc hà, Thiền thoái, Cúc hoa, Hạ khô thảo, Thạch quyết minh.
Phương này khác phương “Tam giáp phục mạch thang”: Tam giáp phục mạch trọng về tu dưỡng tinh huyết, nuôi âm tiềm dương. Còn phương trên một mặt dùng Địa hoàng, Cúc hoa, Quy bản để dục âm tiềm dương, mặt khác tập trung dùng Linh dương giác, Đan bì, Bạc hà, Thiền thoái, Cúc hoa, Hạ khô thảo, Thạch quyết minh, Sài hồ là trọng về bình can tức phong, trị chứng can thận bất túc, can dương thượng cang, can phong nội động biểu hiện các chứng: đau đầu chóng mặt kịch liệt mặt mắt môi lưỡi đều run, nặng nữa thì tứ chi co giật.
Bài viết cùng chuyên mục
Quất lâu giới bạch (bạch tửu thang)
Giới bạch tính ôn mà thông dương, nhất hàn, nhất ôn dùng để thông dương tán kết, hóa đàm hạ khí, trị các chứng do dương khí bất thông.
Thần tê đan
Trừ Xương bồ và các vị Sinh địa, Đậu xị ra, các vị còn lại nên nghiền thành bột mịn, trộn đều, rồi dùng Sinh địa, Xương bồ tươi vắt lấy nước trấp. Lấy nước đó sắc với Đậu xị cho cạn.
Cam toại thông kết thang
Tính chất bài thuốc có thể chia làm 3 bộ phận: Hoạt huyết, hành khí, công hạ. Đào nhân, Xích thược, Ngưu tất dùng để hoạt huyết khử ứ.
Sinh mạch tán
Bài này dùng Nhân sâm bổ ích nguyên khí, Mạch môn dưỡng âm, Ngũ vị thu liễm phế khí bị hao tán và liễm âm chỉ hãn.
Bảo hòa hoàn
Sơn tra, Lục khúc, Thái phục tử, 3 vị này đều giúp tiêu hóa, tiêu tích thực. Trong đó Sơn tra giỏi tiêu chất thịt, chất nhờn.
Mộc hương binh lang hoàn
Bài này dùng Mộc hương, Binh lang, Hương phụ, Thanh bì, Trần bì, Chỉ xác để hành khí, lợi khí, phá khí, đạo trệ. Tam lăng.
Miết giáp tiễn hoàn
Các vị nghiền thành bột, lấy một ít đất lòng bếp lẫn tro đang nóng đổ rượu vào để tro hút rượu độ nửa giờ, rồi nướng Miết giáp vào đó. Xong đem hòa với thuốc làm hoàn. Mỗi ngày 3 lần. Mỗi lần 4 gam nuốt, hoặc dùng 20 gam thuốc ấy sắc uống.
Ô mai hoàn
Hồi quyết, trung quản và bụng đau dữ dội, tâm hạ cảm nhiệt lợ lợm lòng ẩu thổ, hoặc nôn ra giun, tay chân giá lạnh, ra mồ hôi lạnh, mạch phục hoặc huyền khẩn.
Chích cam thảo thang
Bài này dùng Chích cam thảo, Nhân sâm để bổ ích tâm khí vì dùng nhiều Cam thảo nên gọi là Chích cam thảo thang. A giao.
Chấn linh thang
Các vị nghiền thành bột mịn trộn đều, gia thêm bột gạo tẻ từ 10% đến 20% làm hồ luyện thành viên to bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần 4-16 gam, ngày 1-2 lần với nước nóng, hoặc cho vào túi vải sắc với nước làm thang.
Thiếu phúc trục ứ thang
Phương này lấy bài Thất tiếu tán (Bồ hoàng, Ngũ linh chi) phối ngũ với Khung, Quy làm chủ yếu, lại gia Huyền hồ.
Cánh hạ trục ứ thang
Bản phương dùng Đương quy, Xuyên khung, Đào hồng, Đan bì, Xích thược để hoạt huyết, dùng Ngũ linh chi, Diên hồ sách (Huyền hồ) để hóa ứ.
Hành quân tán
Phương này có đặc điểm là dùng nhiều thuốc tân hương tịch uế giải độc. Cho nên trị được khí độc (sa khí) giảm đau bụng, thổ tả, trừ phiền táo, thuộc về tễ ôn khai.
Thực tỳ ẩm
Phương này, thuốc hành khí, ôn hàn có nhiều, nhưng thuốc phù chính bổ khí chưa đủ. Tác dụng chủ yếu để chữa hàn thấp tà, thủy thũng bụng nề, hàn thịnh khí trệ. Vì hàn thấp tà khí hay hao tổn tỳ dương vì thế khử tà tức là phù chính.
Tam nhân thang
Phương này trị thấp nhiệt ở khí phận sốt âm không hư, hoặc sốt cơn sau ngọ, bệnh nhân sáng nhẹ chiều nặng dùng phương này rất có hiệu quả.
Ôn tỳ thang
Bài này thực tế là Tứ nghịch gia Nhân sâm thang lại gia thêm Đại hoàng. Tứ nghịch gia Nhân sâm thang vốn dùng để ôn trung tán hàn, hồi dương cứu nghịch.
Đinh hương thị đế thang
Bài này dùng Đinh hương, Thị đế ôn vị tán hàn, hạ khí giáng nghịch là chính, chuyên trị bệnh nấc, phụ thêm.
Đởm đạo bài thạch thang
Bài này dùng Kim tiền thảo để tiêu sỏi lợi thấp, cùng với Nhân trần, Uất kim lợi đởm hiệp đồng bài sỏi ra ngoài.
Phòng kỷ hoàng kỳ thang
Lâm sàng thường dùng phương này chữa bệnh thận viên mạn tính, có phù, nên gia thêm Ngũ linh tán hoặc Ngũ bì ẩm hợp dụng. Khí hư nhiều nên gia đảng hoặc nhân sâm.
Khiên chính tán
Phương này dùng Bạch phụ tử để tán phong tà ở vùng đầu mặt, Cương tàm khư phong đàm, Toàn yết tức phong trấn kinh, hai vị này hợp dụng, có công năng sưu phong thông lạc.
Chỉ thực đạo trệ hoàn
Bài này dùng Đại hoàng, Chỉ thực công hạ tích trệ; Hoàng liên, Hoàng cầm táo thấp thanh nhiệt, Phục linh, Trạch tả thấm lợi thấp nhiệt.
Ôn kinh thang
Trước đây, người ta cho phương này là tễ tiêu biểu cho các thứ thuốc điều kinh, phần nhiều gia giảm vận dụng cốt đạt và pháp, không câu nệ vào phương.
Tứ nghịch thang
Bài này là phương thuốc tiêu biểu hồi dương cứu nghịch. Phụ tử đại tên đại nhiệt, là thuốc chích để hồi dương, khử hàn, tác dụng đến toàn thân, sức nó nhanh mà không lưu lâu.
Đạo đàm thang
Nhị trần gia Chỉ thực hạ khí giáng nghịch, Nam tinh sưu phong khứ đàm, nên dẫn được đàm xuống, để trị phong đàm Thượng nghịch.
Đại thừa khí thang
Bài thuốc này gồm hai bộ phận là tả hạ và hành khí. Đại hoàng khổ hàn nhằm tiết nhiệt, tả hỏa, giải độc.
