Lục vị địa hoàng hoàn

2013-05-19 09:05 PM

Trong quá trình mắc bệnh mạn tính thấy can thận bất túc, thận âm khuy tổn, lưng đầu gối đau thắt, hoa mắt, ù tai, di tinh, tiêu khát và trẻ em phát dục không tốt.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thành phần

1.  Thục địa               8 lạng.

2.  Đan bì                   3 lạng.

3.  Sơn thù                4 lạng.

4.  Trạch tả                3 lạng.

5.  Sơn dược            4 lạng.

6.  Phục linh             3 lạng.

Cách dùng

Liều lượng nói trên dùng làm thuốc hoàn, luyện với mật làm hoàn, hiệu thuốc có bán thuốc chế sẵn, ngày dùng 8-16 gam, chia 2 lần uống với nước muối nhạt. Trong lâm sàng cũng dùng làm thuốc thang, đun sắc chia 2 lần uống.

Công dụng

Tư bổ âm của can thận.

Chữa chứng bệnh

Trong quá trình mắc bệnh mạn tính thấy can thận bất túc, thận âm khuy tổn, lưng đầu gối đau thắt, hoa mắt, ù tai, di tinh, tiêu khát và trẻ em phát dục không tốt. Hiện nay trong lâm sàng thấy triệu chứng can thận âm hư như đường tiết niệu cảm nhiễm mạn tính, nước đái đường, huyết áp cao và thần kinh suy nhược thường lấy bài thuốc này làm cơ sở rồi gia giảm thêm.

Giải bài thuốc

Đặc điểm tạo thành bài thuốc này là bổ trung ngẫu tả mà bổ âm là chính. Dùng Thục địa để tư âm bổ thận, thêm tinh tích tủy mà sinh huyết, Sơn thù ôn bổ can thận, thu sáp tinh khí, Sơn dược kiện tỳ kiêm trị di tinh, di niệu là “Tam bổ” trong bài thuốc, nhưng lấy Thục địa bổ thận làm chính; Sơn thù bổ can, Sơn dược bổ thận làm phụ nên liều lượng Thục địa gấp đôi vị kia. Đan bì lương huyết thanh nhiệt mà tả hỏa ở can thận. Trạch tả, Phục linh lợi thủy thấm thấp là “Tam tả” của bài thuốc này. Do bài thuốc này bổ là chính nên liều lượng các vị thuốc tả dùng ít thôi. Nhưng liều lượng các vị thuốc không phải nguyên xi không thay đổi, có thể căn cứ thực tế lâm sàng mà biến hóa. Nếu dùng để ích thận âm, có thể theo liều lượng định sẵn là được không cần thay đổi, nếu chữa di tinh, đầu váng, nên tăng thêm liều lượng Sơn thù và Sơn dược, nếu âm hư kèm thêm huyết nhiệt hỏa vượng thì tăng thêm liều lượng Đan bì, đổi Thục địa thành Sinh địa, nếu thận hư phù thũng nước hoặc bị thấp nhiệt, tiểu tiện đau rát thì gia nhiều Trạch tả, Phục linh.

Cách gia giảm

Bài này là phương thuốc cơ sở của bổ thận tư âm, trong lâm sàng thấy triệu chứng âm hư, thường dùng bài này gia giảm thêm. Nếu thấy triệu chứng can huyết hư thì gia thêm Đương quy, Bạch thược (tức Quy thược địa hoàng hoàn) để dưỡng huyết nhu can, nếu kèm theo phế thận khí hư, ho thở mạnh thì gia thêm Ngũ vị (tức Thất vị đô khí hoàn) hoặc gia thêm Mạch môn (tức Mạch vị độc khí địa hoàng hoàn) để liễm phế nạp thận v.v… Một vài vị thuốc có công dụng tương tự có thể thay thế như Thủ ô thay được Địa hoàng, Ngũ vị, Câu kỷ tử, Thỏ ti tử tùy theo bệnh tình có thể thay thế Sơn thù. Tóm lại, ứng dụng bài này có thể phỏng theo cách chữa mà thay đổi vị thuốc.

Phụ phương

Tri bá địa hoàng hoàn:

Lại có tên “Tri bá bát vị hoàn” tức “Lục vị địa hoàng hoàn” gia Tri mẫu, Hoàng bá mỗi vị 2 lạng. Có tác dụng tư âm tả hỏa, thích hợp với các chứng âm hư hỏa vượng, xương nhức ra mồ hôi trộm, họng đau, thăng hỏa, miệng khô lưỡi táo, hiện nay các chứng đi đái ra máu cấp tính, cảm nhiễm đường tiết niệu mạn tính thường dùng bài thuốc này gia giảm điều huyết, chứng sau có thể phối hợp các vị thanh nhiệt giải độc và thủy thông lâm.

Liều lượng giống với Lục vị địa hoàng hoàn.

Kỹ cúc địa vị hoàng hoàn:

Tức “Lục vị địa hoàng hoàn” gia Câu kỷ tử, Bạch cúc hoa mỗi thứ 3 lạng.

Trị can thận bất túc, đầu váng mắt hoa, thị lực giảm sút. Chữa bệnh huyết áp cao lúc thấy âm hư dương bốc cũng dùng bài này điều trị.

Liều lượng thuốc hoàn giống với Lục vị địa hoàng hoàn.

Minh mục địa hoàng hoàn:

Tức “Lục vị địa hoàng hoàn” gia Đương quy, Bạch thược, Câu kỷ tử, Cúc hoa, Bạch tật lê, Thạch quyết minh.

Tác dụng sáng mắt, tư bổ can thận, tiêu tán phong nhiệt, chữa các chứng trong mắt khô, quáng gà, nhìn vật thể lờ mờ. Với bệnh huyết áp cao thấy triệu chứng âm hư dương bốc, cũng dùng được.

Liều lượng thuốc hoàn giống với Lục địa hoàng hoàn.

Đại bổ nguyên tiễn:

Tức “Lục vị địa hoàng hoàn” bỏ Phục linh, Trạch tả, Mẫu đơn gia Cẩu kỷ, Đỗ trọng, Đảng sâm, Chích cam thảo, Đương quy.

Do bài thuốc này giảm đi “Tam tả” của Lục vị địa hoàng hoàn mà gia thêm Đậu kỹ, Đỗ trọng để bổ ích can thận; Đảng sâm, Cam thảo để bổ khí; Đương quy bổ huyết, bổ lực so với Lục vị địa hoàng hoàn thì mạnh hơn, thích hợp với chứng thận hư mà vô nội nhiệt và đàm thấp.

Bài viết cùng chuyên mục

Súc tuyến hoàn

Các vị nghiền thành bột, dùng nước sôi để nguội luyện thành hoàn to bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 4-12 gam với nước nóng. Ngày 2-3 lần.

Lý trung hoàn

Phương này dùng Bào khương ôn trung tán hàn, Sâm, Truật, Cam thảo bổ khí kiện tỳ hòa trung, chữa được chứng tỳ vị hư hàn.

Tả quy hoàn

Bài này từ Lục vị địa hoàng hoàn biến hóa ra không dùng Đan bì lương huyết tả hỏa và Phục linh, Trạch tả khô thấm lợi thủy mà dùng Thỏ ty.

Miết giáp tiễn hoàn

Các vị nghiền thành bột, lấy một ít đất lòng bếp lẫn tro đang nóng đổ rượu vào để tro hút rượu độ nửa giờ, rồi nướng Miết giáp vào đó. Xong đem hòa với thuốc làm hoàn. Mỗi ngày 3 lần. Mỗi lần 4 gam nuốt, hoặc dùng 20 gam thuốc ấy sắc uống.

Độc hoạt ký sinh thang

Tam tý thang: Tức là bản phương bỏ Ký sinh, gia Hoàng kỳ, Tục đoạn, tức là lấy bài Thập toàn đại bổ làm cơ sở và gia thuốc bổ can thận, khư phong thấp mà hợp thành. Cách trị cũng như phương trên, nhưng có Hoàng kỳ thì tác dụng bổ hư càng mạnh.

Ôn tỳ thang

Bài này thực tế là Tứ nghịch gia Nhân sâm thang lại gia thêm Đại hoàng. Tứ nghịch gia Nhân sâm thang vốn dùng để ôn trung tán hàn, hồi dương cứu nghịch.

Bát chính tán

Mộc thông, Xa tiền, Cồ mạch, Biển súc, Hoạt thạch, Cam thảo là các vị thuốc lợi thủy, làm chủ dược của phương, đồng thời chúng cũng có tác dụng thanh nhiệt.

Quất bì trúc nhự thang

Bài này dùng Nhân sâm, Cam thảo, Đại táo bổ vị hư, Trần bì hòa vị, lý khí, Trúc nhự thanh vị nhiệt, giáng nghịch khí phối hợp tạo thành.

Phổ tế tiêu độc ẩm

Đây là bài thuốc tiêu biểu chữa thanh nhiệt giải độc và sơ tán phong nhiệt. Các vị Hoàng cầm, Hoàng liên, Liên kiều, Huyền sâm.

Hầu tảo tán

Phương này dùng Hầu táo, Nguyệt thạch, Bối mẫu, Mông thạch để hóa đàm, linh dương giác tức phong, Xạ hương khai khiếu, Trầm hương giáng nghịch khí, dẫn đờm đi xuống.

Hoàng long thang

Bài này là Đại thừa khí thang gia thêm các vị thuốc ích khí (Nhân sâm), dưỡng huyết (Đương quy) tạo thành. Các vị thương táo trong bài thuốc là để hòa vị điều trung.

Tả tâm thang

Bài này tuy lấy tên là “Tả tâm thang” nhưng thực tế không phải chuyên trị tả tâm hỏa mà là tả mọi thực hỏa, giải nhiệt độc, thanh thấp nhiệt.

Cát căn hoàng cầm hoàng liên thang

Nếu người bệnh nôn mửa gia Bán hạ, ăn uống bị trệ có thể gia Sơn tra, Lục thần khúc, đau bụng có thể gia Mộc hương.

Lục nhất tán

Phương này có 6 phần Hoạt thạch, một phần Cam thảo, nên tên gọi lục nhất. Hoạt thạch vị đạm tính hàn, đạm năng thảm thấp, hàn năng tiêu nhiệt, giải thử.

Lý trung hoàn (ôn)

Bài này dùng Bào khương khử hàn, Bạch truật kiện tỳ, Nhân sâm bổ khí, Cam thảo hòa trung và còn giúp sâm, truật kiện tỳ bổ khí.

Giao thái hoàn

Chủ trị mất ngủ, khi đi nằm tinh thần hưng phấn tâm hồi hộp không yên, không nằm được. Ban ngày đầu hôm (như mê) hay buồn ngủ.

Thanh tỳ ẩm

Chủ trị chữa các loại sốt rét lên cơn có giờ nhất định, biểu hiện nóng nhiều rét ít, ngực đầy, nôn ọe, miệng đắng, tâm phiền, mạch huyền hoạt, rêu lưỡi vàng nhớt, các chứng thấp nhiệt.

Tiêu ung thang (Tiên phương hoạt mệnh ẩm)

Toàn phương có công năng thanh nhiệt giải độc hoạt huyết tiêu ung, gia thêm rượu vì “tửu năng hành dược tính”; khiến cho sức thuốc chóng tới nơi có bệnh.

Đạo nhiệt tán

Chủ trị tâm hỏa vượng, tâm phiền không ngủ được, mồm lưỡi sinh mụn có loét, tiểu tiện xẻn đỏ, đau buốt.

Liên phác ẩm

Dùng Hoàng liên tính khổ hàn và Hậu phác tính tân khổ ôn làm vị thuốc chủ yếu của bài thuốc này, phụ thêm Chi tử. Đậu cổ giải uất đạt tà.

Ma hoàng thang

Ma hoàng tân ôn phát biểu, tuyên phế, bình suyễn là chủ dược, phối với Quế chi ôn kinh tán hàn giúp Ma hoàng phát biểu.

Mẫu lệ tán

Bốn vị phối hợp cùng dùng mục đích chủ yếu là liễm mồ hôi. Bất luận là chứng tự hãn hay đạo hãn đều có thể gia giảm mà ứng dụng phương này.

Quế cam long mẫu thang

Phương này bỏ Quế, Cam gia Nhân sâm, Bào phụ tử sắc nước gọi là Sâm phụ long cốt thang tức là biến phương ôn thông tâm dương thành phương ôn bổ thận dương, là một phương thuộc đại phong (rất kín đáo) đại cố.

Thạch cao thục địa tiễn

Bản phương dùng Thạch cao, Tri mẫu, thanh bị vị hỏa, Thục địa tư bổ thận âm, Mạch đông dưỡng âm thanh nhiệt, Ngưu tất dẫn nhiệt đi xuống.

Tuyên phức đại giả thang

Bài này trong ứng dụng lâm sàng nếu thấy rêu lưỡi nhờn, thiên về đàm thấp có thể gia Hậu phác, Phục linh, Trần bì.