Tiêu hóa hấp thu và chuyển hóa năng lượng của thức ăn và chất dinh dưỡng

2020-06-01 11:16 AM

Thông thường tỉ lệ chuyển hóa của trẻ sơ sinh so với trọng lượng cơ thể gấp đôi người lớn, chúng giải thích cho thực tế rằng hiệu suất của tim và thể tích hô hấp trong một phút gấp đôi người lớn so với trọng lượng cơ thể.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thông thường, khả năng tiêu hóa, hấp thu, và chuyển hóa của trẻ sơ sinh là không có sự khác biệt so với trẻ lớn, ngoại trừ 3 đặc điểm sau:

1. Tụy của trẻ sơ sinh bài tiết thiếu amylase, vì thế trẻ sơ sinh thường sử dụng được ít tinh bột hơn so với trẻ lớn.

2. Hấp thu chất béo từ đường tiêu hóa ít hơn một chút so với trẻ lớn. Kết quả, sữa với lượng chất béo cao, như sữa bò, thường không hấp thu được đầy đủ.

3. Bởi vì chức năng gan chưa đầy đủ ít nhất trong tuần đầu tiên, nồng độ đường máu không ổn định và thấp.

Trẻ sơ sinh có đặc biệt có khả năng tổng hợp và dự trữ các protein. Thực tế, với chế độ ăn đầy đủ, trên 90% các amino acid ăn vào sẽ được sử dụng để hình thành các protein cơ thể, cao hơn nhiều so với người lớn.

Tăng tỉ lệ chuyển hóa và kém điều hòa nhiệt độ cơ thể

Thông thường tỉ lệ chuyển hóa của trẻ sơ sinh so với trọng lượng cơ thể gấp đôi người lớn, chúng giải thích cho thực tế rằng hiệu suất của tim và thể tích hô hấp trong một phút gấp đôi người lớn so với trọng lượng cơ thể.

Bởi vì diện tích bề mặt cơ thể là lớn so với trọng lượng cơ thể, thiệt dễ bị mất khỏi cơ thể. Như kết quả, nhiệt độ cơ thể của trẻ sơ sinh, chủ yếu là trẻ sinh thiếu tháng, dễ bị hạ nhiệt. Hình biểu thị rằng ngay cả một đứa trẻ bình thường nhiệt độ cơ thể cũng thường giảm vài độ trong vài giờ đầu sau sinh nhưng quay lại mức bình thường từ 7 đến 10 giờ. Tuy nhiên, các cơ chế điều hòa nhiệt độ cơ thể vẫn nghèo nàn trong những ngày đầu, cho phép nhiệt độ thay đổi đáng kể, cũng được biểu hiện ở hình.

 Giảm nhiệt độ cơ thể của trẻ sơ sinh

Hình. Giảm nhiệt độ cơ thể của trẻ sơ sinh ngay lập tức sau khi sinh và sự bất ổn của nhiệt độ cơ thể trong vài ngày đầu ngày của cuộc sống.

Nhu cầu dinh dưỡng trong những tuần đầu của đứa trẻ

Lúc sinh, một đứa trẻ thường hoàn toàn cân bằng dinh dưỡng, nếu người mẹ được bổ sung một chế độ dinh dưỡng đầy đủ. Hơn nữa, chức năng của hệ tiêu hóa thường có nhiều khả năng để tiêu hóa và đồng hóa các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ sơ sinh nếu các chất dinh dưỡng thích hợp được cung cấp trong chế độ ăn. Tuy nhiên, có 3 vấn đề đặc biệt xuất hiện sớm ở trẻ sơ sinh.

Nhu cầu Calci và Vitamin D

Bởi vì trẻ sơ sinh có giai đoạn hóa xương nhanh lúc sinh, sẵn sàng cung cấp calci trong suốt tuổi thơ ấu là cần thiết.

Thông thường được cung cấp đầy đủ bởi cho dùng sữa. Tuy nhiên, hấp thu calci bởi ống tiêu hóa giảm khi không có vitamin D. Do đó, chỉ trong vài tuần, thiếu vitamin D ở trẻ sơ sinh có thể gây bệnh còi xương nặng. Điều này đặc biệt đúng ở trẻ sơ sinh thiếu tháng bởi vì đường tiêu hóa của chúng hấp thu calci kém hiệu quả hơn so với những trẻ sơ sinh bình thường.

Nhu cầu sắt trong chế độ ăn

Nếu người mẹ thiếu sắt trong chế độ ăn, gan của đứa trẻ thường được dự trữ đủ lượng sắt để duy trì hình thành các tế bào máu trong 4-6 tháng sau sinh. Tuy nhiên, nếu người mẹ cung cấp thiếu sắt trong chế độ ăn, thiếu máu nặng có khả năng xảy ra ở trẻ sơ sinh sau khoảng 3 tháng. Để ngăn khả năng này, cho trẻ ăn bổ sung với lòng đỏ trứng, chúng chứa lượng lớn sắt hợp lý, hoặc sử dụng một số dạng sắt khác là cần thiết vào tháng thứ 2 hoặc thứ 3.

Thiếu vitamin C ở trẻ sơ sinh

Acid Ascorbic (vitamin C) không được dự trữ với số lượng nhiều trong mô của bào thai, nhưng nó cần thiết để thích hợp hình thành sụn, xương và các cấu trúc gian bào khác của trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, lượng vitamin C thường được cung cấp đủ bởi sữa mẹ trừ khi người mẹ bị thiếu vitamin C nghiêm trọng. Sữa bò chỉ co lượng vitamin C bằng 1/4 so với sữa mẹ. Trong một số trường hợp nước cam hoặc một số nguồn acid ascorbic khác được bổ sung cho những trẻ sơ sinh thiếu vitamin C.

Bài viết cùng chuyên mục

Sự thẩm thấu của nhau thai và màng khuếch tán

Trong những tháng đầu của thai kì, màng nhau thai vẫn còn dày vì nó không được phát triển đầy đủ. Do đó tính thấm của nó thấp. Hơn nữa diện tích bề mặt nhỏ vì nhau thai chưa phát triển đáng kể. Nên tổng độ khuếch tán là rất nhỏ ở đầu tiên.

Huyết áp động mạch: kiểm soát bằng lợi liệu áp lực

Lượng dịch vào và ra phải cân bằng tuyệt đối,  nhiệm vụ này được thực hiện bởi điều khiển thần kinh và nội tiết và bởi hệ thống kiểm soát tại thận, nơi mà điều hòa bài tiết muối và nước.

Sóng hô hấp trong áp suất động mạch

Tăng huyết áp trong giai đoạn sớm của thì thở ra và giảm trong phần còn lại của chu kỳ hô hấp. Khi thở sâu, huyết áp có thể tăng 20mmHg với mỗi chu kỳ hô hấp.

Nguồn gốc của điện thế màng tế bào nghỉ

Sự khuếch tán đơn thuần kali và natri sẽ tạo ra điện thế màng khoảng -86mV, nó được tạo thành hầu hết bởi sự khuếch tán kali.

Vùng dưới đồi: cơ quan đầu não của hệ limbic

Vùng dưới đồi, mặc dù kích thước nhỏ, chỉ vài cm (nặng khoảng 4 gram),  nhưng có 2 đường truyền tới tất cả cấu trúc của hệ limbic. Vùng dưới đồi và cấu trúc phụ liên quan gửi xung động đi ra theo 3 đường.

Vỏ não thị giác: sáu lớp sơ cấp phân khu

Vỏ não thị giác được tổ chức cấu trúc thành hàng triệu cột dọc của tế bào thần kinh, mỗi cột có đường kính từ 30 đến 50 micromet. Tổ chức cột dọc tương tự cũng được tìm thấy trên khắp vỏ não chi phối các giác quan khác.

Các yếu tố điều chỉnh lượng thực phẩm ăn vào cơ thể

Sự điều chỉnh lượng thức ăn ăn vào có thể được chia thành điều chỉnh ngắn hạn, nó quan tâm chủ yếu tới việc hạn chế lượng thức ăn trong một bữa, và điều chỉnh dài hạn, kiểm soát chủ yếu là duy trì số lượng bình thường dự trữ năng lượng trong cơ thể.

Vai trò của insulin trong chuyển đổi carbohydrate và chuyển hóa lipid

Khi nồng độ glucose máu cao, insulin được kích thích bài tiết và carbohydrate được sử dụng thay thế chất béo. Glucose dư thừa trong máu được dự trữ dưới dạng glycogen và chất béo ở gan, glycogen ở cơ.

Phản xạ gấp và phản xạ rút lui khỏi vật kích thích

Các thông tin khởi phát phản xạ rút lui không được truyền trực tiếp vào neuron sừng trước tủy sống mà thay vào đó trước tiên được truyền vào các neuron liên hợp, rồi mới vào neuron vận động.

Đặc điểm sinh lý cấu tạo bộ máy tiêu hóa

Thiết đồ cắt ngang, ống tiêu hóa cấu tạo gồm 8 lớp từ trong ra ngoài: niêm mạc, cơ niêm, lớp dưới niêm mạc, đám rối Meissner, cơ vòng

Sự di chuyển của trứng đã thụ tinh trong ống dẫn trứng

Progesterone tăng tiết ra nhiều bởi hoàng thể buồng trứng đầu tiên thúc đẩy tăng thụ thể progesterone ở các tế bào cơ trơn ống dẫn trứng, sau đó progesterone kích thích các thụ thể, gây giãn ống cho phép trứng đi vào tử cung.

Kiểm soát chức năng tình dục nam giới bằng các hormone vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên

LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.

Vùng vận động bổ xung: chức năng vận động của vỏ não và thân não

Vùng vận động bổ sung có bản đồ hình chiếu khác nữa để chi phối chức năng vận động. Vùng này nằm chủ yếu ở khe dọc giữa nhưng kéo dài vài cm lên trên vùng vỏ não trán trên.

Nhiệt cơ thể trong tập luyện thể thao

Mức tiêu thụ oxy bởi cơ thể có thể tăng lên đến 20 lần trong vận động viên tập luyện tốt và lượng nhiệt giải phóng trong cơ thể là gần như tỷ lệ thuận với mức tiêu thụ oxy, một lượng lớn nhiệt được đưa vào nội bộ mô của cơ thể.

Các dạng khác nhau của các tuyến tiêu hóa

Hầu hết sự tạo thành các enzym tiêu hóa đều là do việc đáp ứng lại với sự có mặt của thức ăn trong đường tiêu hóa, và lượng được bài tiết trong mỗi đoạn của đường tiêu hóa luôn luôn phù hợp với lượng thức ăn đó.

Hoạt động chuyển hóa tế bào của Aldosterol

Aldosterol không có tác dụng vận chuyển natri ngay lập tức; đúng hơn tác dụng này phải chờ hình thành liên tục những chất đặc biệt cần thiết vận chuyển natri.

So sánh tế bào trong cơ thể người với những dạng sống dưới tế bào

Những chất hóa học bên cạnh acid nucleic và những protein đơn giản trở thành những phần của sinh vật, và những chức năng chuyên biệt bắt đầu phát triển ở nhiều phần khác nhau của virus.

Giải phẫu và sinh lý của tụy

Tụy tiết nhiều hormon, như amylin, somatostatin, và pancreatic polypeptide, chức năng của chúng chưa được biết rõ. Mục đích chính là bàn về vai trò sinh lý của insulin và glucagon và sinh lý bệnh của các bệnh lý.

Đại cương về hệ nội tiết và hormon

Hoạt động cơ thể được điều hòa bởi hai hệ thống chủ yếu là: hệ thống thần kinh và hệ thống thể dịch. Hệ thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm điều hoà thể tích máu, các thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các khí, ion.

Insulin và ảnh hưởng lên chuyển hóa

Insulin được biết đến rằng có liên hệ với đường huyết, và đúng như vậy, insulin có ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển hóa carbohydrate.

Synap thần kinh trung ương: synap hóa và synap điện

Sự dẫn truyền tín hiệu tại ở loại synap hóa học chỉ theo 1 chiều, từ sợi thần kinh tiết ra chất dẫn truyền (được gọi là sợi trước synap) đến sợi sau nó (được gọi là sợi sau synap).

Kiểm soát lưu lượng máu đến cơ vân

Ngoài cơ chế giãn mạch mô cục bộ, các cơ xương còn được cung cấp các dây thần kinh co mạch giao cảm và (ở một số loài động vật) cũng như các dây thần kinh giãn mạch giao cảm.

Phản xạ của dạ dày ruột

Sự sắp xếp về mặt giải phẫu của hệ thần kinh ruột và các đường kết nối của nó với hệ thần kinh thực vật giúp thực hiện ba loại phản xạ dạ dày-ruột có vai trò thiết yếu.

Sinh lý thần kinh tủy sống

Do trong quá trình phát triển, cột sống phát triển nhanh hơn tủy sống nên phần thấp nhất của tủy sống chỉ ngang gian đốt sống thắt lưng 1-2 (L1-L2). Vì vậy, khi chọc dò dịch não tủy, để tránh gây tổn thương tủy sống, ta thường chọc ở vị trí thắt lưng 4-5 (L4-L5).

Giai đoạn thể tích và áp lực của tuần hoàn động mạch và tĩnh mạch

Sự duy trì trương lực là một trong những cách hệ tuần hoàn tự động thích nghi trong thời gian khoảng vài phút đến vài giờ nếu lượng máu bị mất sau một xuất huyết nặng.