- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Đại cương về hệ nội tiết và hormon
Đại cương về hệ nội tiết và hormon
Hoạt động cơ thể được điều hòa bởi hai hệ thống chủ yếu là: hệ thống thần kinh và hệ thống thể dịch. Hệ thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm điều hoà thể tích máu, các thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các khí, ion.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hoạt động cơ thể được điều hòa bởi hai hệ thống chủ yếu là: hệ thống thần kinh và hệ thống thể dịch. Hệ thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm điều hoà thể tích máu, các thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các khí, ion và đặc biệt là nồìng độ các hormon, do đó hệ thống thể dịch còn được gọi là hệ thống nội tiết.
Chức năng của hệ nội tiết
Duy trì hằng định nội môi, bảo đảm môi trường cho hoạt động chuyển hóa tại tế bào.
Giúp cơ thể đáp ứng trong những trường hợp khẩn cấp như đói, nhiễm trùng, chấn thương, stress tâm lý.
Tác động trên sự tăng trưởng.
Đảm bảo hoạt động sinh sản.
Định nghĩa và phân loại hormon
Định nghĩa
Hormon là những chất hóa học do một nhóm tế bào hoặc một tuyến nội tiết bài tiết vào máu rồi được máu đưa đến các tế bào hoặc các mô khác trong cơ thể và gây ra các tác dụng sinh lý tại đó.
Phân loại
Dựa vào nơi bài tiết và nơi tác dụng người ta phân thành hai nhóm hormon:
Hormon tại chỗ (local hormones) là những hormon do một nhóm tế bào bài tiết vào máu và có tác dụng tại chỗ đặc hiệu trên các tế bào gần nơi bài tiết. Một số hormon tại chỗ như acetylcholine, secretin, cholecystokinin, histamin, prostaglandin.
Ví dụ:
Secretin do tế bào thành tá tràng bài tiết vào máu, có tác dụng kích thích tuyến tuỵ bài tiết dịch tuỵ loãng.
Histamin được bài tiết hầu hết các mô trong cơ thể đặc biệt mô da phổi, ruột. Histamin có tác dụng làm giãn mạch và tăng tính thấm của mao mạch.
Hormon chung (general hormones) là những hormon do tuyến nội tiết bài tiết và có tác dụng sinh lý trên các tế bào ở các tổ chức xa nơi bài tiết. Một số hormon có tác dụng lên hầu hết các tế bào của cơ thể như GH của tuyến yên, hormon tuyến giáp.
Một số hormon chỉ có tác dụng đặc hiệu trên một số mô hoặc một cơ quan nào đó như ACTH, TSH, FSH, LH...của tuyến yên. Những mô hoặc cơ quan chịu tác dụng của các hormon này được gọi là mô đích hay cơ quan đích.
Các hormon của tuyến nội tiết chính là:
Vùng dưới đồi: bài tiết các hormon giải phóng và ức chế, hai hormon được bài tiết bởi nhân trên thị và nhân cạnh não thất là ADH (vasopressin) và oxytocin được chứa ở thuỳ sau tuyến yên.
Tuyến yên: thuỳ trước bài tiết GH, ACTH, TSH, FSH, LH, Prolactin.
Tuyến giáp: bài tiết T3, T4 và Calcitonin.
Tuyến cận giáp: bài tiết parathormon (PTH).
Tuyến tuỵ nội tiết: bài tiết insulin, glucagon, somatostatin.
Tuyến thượng thận: Vỏ thượng thận bài tiết cortisol, aldosteron và androgen.
Tuỷ thượng thận bài tiết adrenalin và noradrenalin.
Tuyến buồng trứng: bài tiết estrogen và progesteron
Tuyến tinh hoàn: bài tiết testosteron.
Rau thai: bài tiết HCG, estrogen, progesteron, HCS, relaxin.
Bản chất hóa học của hormon
Có 3 loại cơ bản.
Hormon steroid: là những hormon có cấu trúc hoá họüc giống cholesterol và hầu hết được tổng hợp từ cholesterol như hormon vỏ thượng thận, tinh hoàn, buồng trứng và rau thai.
Hormon dẫn xuất từ acid amin là tyrosine: hormon của tuyến giáp (T3, T4), hormon của tủy thượng thận (adrenalin và noradrenalin).
Hormon peptid: đa số những hormon còn lại thuộc nhóm này như hormon vùng dưới đồi, hormon tiền yên, hormon tuyến cận giáp, hormon tuỵ nội tiết.
Ngoài ra còn có hormon dạng eicosanoid: các hormon địa phương, mới được khám phá gần đây, như prostaglandin, leucotrien.
Cơ chế tác dụng của hormon
Chất tiếp nhận (Receptor)
Khi đến tế bào đích, hormon thường không tác dụng trực tiếp vào cấu trúc trong tế bào mà thường kết hợp với chất tiếp nhận ở bề mặt hoặc bên trong màng tế bào hoặc trong nhân tế bào đích. Phức hợp hormon-receptor sẽ thúc đẩy một chuỗi phản ứng hoá học trong tế bào, những phản ứng sau bao giờ cũng mạnh hơn phản ứng trước nên chỉ những kích thích ban đầu dù rất nhỏ của hormon cũng đủ gây hiệu quả cuối cùng rất lớn.
Các chất tiếp nhận hormon là những phân tử protein có trọng lượng phân tử lớn, mỗi tế bào đích có khoảng 2000-100.000 receptor. Mỗi receptor đặc hiệu cho một loại hormon, chính điều này quyết định tác dụng đặc hiệu của hormon lên mô đích.
Số lượng receptor ở tế bào đích có thể thay đổi từng ngày thậm chí từng phút vì các phân tử protein receptor tự nó có thể bị bất hoạt hoặc bị phá huỷ, nhưng rồi có thể được hoạt hoá trở lại hoặc được tổng hợp các phân tử mới trong tế bào. Số lượng receptor tại mô đích tỉ lệ nghịch với lượng hormon trong máu. Điều này giúp điều hoà hoạt động của tế bào.
Cơ chế tác dụng chủ yếu của hormon
Tuỳ theo bản chất hoá học của hormon mà vị trí gắn của hormon với receptor sẽ xảy ra ở trên màng, trong bào tương hoặc trong nhân. Do đó chúng sẽ có những cơ chế tác động khác nhau trên tế bào đích.
Cơ chế tác dụng lên sự hình thành AMP vòng (hình):
Các hormon dạng peptid và catecholamine là những hormon có trọng lượng phân tử lớn, không hòa tan trong mỡ, không qua được màng tế bào, được tiếp nhận vào tế bào bởi những receptor đặc hiệu nằm trên bề mặt tế bào.
Phức hợp hormon-receptor sẽ hoạt hóa men adenylcyclase nằm trên màng tế bào, men này xúc tác phản ứng chuyển ATP (adenosine triphosphate) thành AMP vòng (AMPv: cyclic 3’- 5’ adenosine monophosphate) trong bào tương, tiếp đó AMPv sẽ hoạt hóa một chuỗi các men khác trong tế bào theo kiểu dây chuyền, dẫn đến những thay đổi sinh lý đặc hiệu tại tế bào đích như sinh tổng hợp các chất, thay đổi tính thấm màng tế bào, co hoặc dãn cơ...
Đáp ứng AMP vòng xảy ra tại tế bào đích phụ thuộc vào thành phần cấu trúc trong tế bào hay hệ thống men có trong tế bào đích. Mỗi tế bào có những hệ thống men khác nhau nên tác dụng của hormon gây ra tại tế bào đích là không giống nhau.
Sau khi gây ra tác dụng sinh lý trên tế bào đích, AMP vòng bị bất hoạt trở thành 5’AMP dưới tác dụng của men phosphodiesterase có trong bào tương tế bào đích.
Như vậy, chính AMP vòng mới gây ra tất cả tác dụng của hormon trong tế bào nên hormon được xem là chất truyền tin thứ 1 và AMPv là chất truyền tin thứ 2.
Một số hormon lại không sử dụng AMPv như chất thông tin thứ 2, mà thay vào đó là GMPv, ion canxi, inositol triphosphate, diacyl glycerol... và cũng gây một loạt tác dụng trong tế bào tương tự AMPv.
Cơ chế tác dụng lên quá trình tổng hợp proteine (hình):
Hormon dạng steroid và hormon tuyến giáp có trọng lượng phân tử nhỏ, hòa tan trong mỡ, có thể khuếch tán qua màng tế bào, rồi kết hợp với các receptor đặc hiệu trong bào tương hoặc trong nhân.
Phức hợp này đi vào trong nhân tác động lên DNA của nhiễm sắc thể, tăng quá trình sao chép đặc hiệu của gen dẫn đến tăng RNA thông tin (mRNA ). Các ARN thông tin này sẽ đi ra bào tương và thúc đẩy quá trình dịch mã tại ribosome để tạo những protein mới, những protein được hình thành từ RNA thông tin này tạo nên những đáp ứng sinh lý.
Kiểu tác dụng này thường xuất hiện chậm nhưng lại tác dụng kéo dài, trái ngược với tác dụng xảy ra tức khắc của các hormon tác dụng qua sự hình thành AMP vòng.
Hình: Tác dụng trên sự hình thành AMPv (trái), trên sự tổng hợp protein (phải).
Điều hòa bài tiết hormon
Các hormon được bài tiết theo cơ chế điều khiển từ tuyến chỉ huy đến tuyến đích và theo cơ chế điều hoà ngược từ tuyến đích đến tuyến chỉ huy. Đây là cơ chế điều hoà chủ yếu để duy trì nồng độ hormon luôn hằng định, và thích ứng được với hoạt động của cơ thể và sự thay đổi của môi trường, phần lớn các hormon được bài tiết theo cơ chế điều khiển ngược. Ngoài ra, sự bài tiết hormon còn được điều hoà theo nhịp sinh học và qua một số chất truyền đạt thần kinh. Tuy nhiên cơ chế điều hoà ngược vẫn là cơ chế chủ yếu, nhanh và nhạy.
Điều hòa ngược âm tính
Khi nồng độ hormon tuyến đích tăng, thì chính hormon đó tác dụng ngược trở lại vùng dưới đồi và tuyến yên, làm giảm sự bài tiết các hormon tương ứng phía trên. Ngược lại, khi nồng độ hormon tuyến đích giảm sẽ kích thích vùng dưới đồi và tuyến yên để tăng cường bài tiết các hormon tương ứng của nó.
Cơ chế điều hòa ngược được thực hiện bằng 3 con đường:
Long- feedback: ngược dòng dài, từ tuyến đích theo đường máu trở về tuyến yên và vùng dưới đồi
Short -feedback: ngược dòng ngắn, từ tuyến yên ngược trở lại vùng dưới đồi
Ultra short -feedback: ngược dòng cực ngắn, điều hoà trong nội bộ vùng dưới đồi và ức chế bài tiết hormon tương ứng ở tuyến yên (các IRH).
Điều hoà ngược âm tính là kiểu thường gặp nhằm duy trì nồng độ hormon trong giới hạn bình thường (Sơ đồ).
Điều hòa ngược dương tính
Ởí vài trường hợp, nồng độ hormon tuyến đích tăng, gây tăng bài tiết horrmon tuyến chỉ huy. Cơ chế này ít xảy ra, chỉ liên quan đến bảo vệ cơ thể, như chống stress, chống lạnh hoặc gây phóng noãn. Cơ chế này rất cần thiết vì thường liên quan đến những hiện tượng mang tính sống còn của cơ thể. Tuy nhiên kiểu điều hoà này chỉ xảy ra một thời gian ngắn, sau đó sẽ chuyển sang điều hoà ngược âm tính thông thường.
Sơ đồ: Tóm tắt cơ chế điều hòa ngược.
Bài viết cùng chuyên mục
Điện thế hoạt động trong cơ tim
Trong cơ tim, điện thế hoạt động được tạo ra do mở kênh natri nhanh kích hoạt điện thế và một tập hợp hoàn toàn khác các kênh canxi typ L, chúng được gọi là kênh canxi - natri.
Sinh lý phản xạ có điều kiện và không điều kiện
Bằng những công trình nghiên cứu trên hệ thần kinh trong nhiều năm, Pavlov đã phân biệt hai loại phản xạ: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.
Sinh lý thần kinh vùng dưới đồi
Vùng dưới đồi có chức năng chống bài niệu thông qua ADH (antidiuretic hormon), đây là một hormon do nhân trên thị và nhân cạnh não thất bài tiết.
Sinh lý hệ thần kinh tự động
Receptor tiếp nhận norepinephrin của hệ giao cảm được gọi là noradrenergic receptor, bên cạnh norepinephrin, các receptor này cũng đáp ứng với epinephrin.
Trạm thần kinh: sự dẫn truyền và xử lý các tín hiệu
Hệ thần kinh trung ương bao gồm hàng nghìn đến hàng triệu trạm thần kinh; một số trạm chứa vài nơ-ron, trong khi những trạm khác chứa số lượng nơ-ron lớn.
Phản xạ nhĩ và động mạch phổi điều hòa huyết áp
Ở thành của tâm nhĩ và động mạch phổi có receptor căng gọi là receptor hạ áp, nó giống với thụ thể cảm nhận của động mạch hệ tuần hoàn lớn.
Giải phóng hormon thyroxine và triiodothyronine từ tuyến giáp
Trong quá trình biến đổi phân tử thyroglobulin để giải phóng thyroxine và triiodothyronine, các tyrosine được iod hóa này cũng được giải thoát từ phân tử thyroglobulin, chúng không được bài tiết vào máu.
Tiêu hóa Carbohydrate ở ruột non
Những nhung mao lót các tế bào ruột non chứa 4 enzyme, chúng có khả năng cắt disaccharide lactose, sucrose, và maltose, cộng thêm các polymer glucose nhỏ khác, thành các monosaccharide thành phần.
Nơi tích trữ chất béo trong cơ thể người
Các tế bào gan ngoài chứa triglycerides, còn chứa lượng lớn phospholipid và cholesterol, chúng liên tục được tổng hợp ở gan. Ngoài ra, các tế bào gan còn khử bão hòa các acid béo nhiều hơn ở các mô khác.
Kích thích và dẫn truyền xung động của tim
Nút xoang (còn gọi là nhĩ xoang hay nút SA) phát nhịp trong hệ thống tạo xung nhịp bình thường, theo đường dẫn xung từ nút xoang tới nút nhĩ thất (AV).
Ảnh hưởng của insulin lên chuyển hóa carbohydrat
Tác dụng của insulin trong việc tăng cường nồng độ glucose bên trong tế bào cơ, trong trường hợp không có insulin, nồng độ glucose nội bào vẫn gần bằng không, mặc dù nồng độ glucose ngoại bào cao.
Cảm giác thân thể: con đường dẫn truyền vào hệ thần kinh trung ương
Các thông tin cảm giác từ các phân đoạn thân thể của cơ thể đi vào tủy sống qua rễ sau của dây thần kinh sống. Từ vị trí đi vào tủy sống và sau là đến não, các tín hiệu cảm giác được dẫn truyền qua một trong 2 con đường thay thế.
Vòng phản xạ thần kinh: sự ổn định và mất ổn định
Hầu như tất cả các phần của não kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp với tất cả các phần khác, nó tạo ra một thách thức nghiêm trọng. Nếu phần đầu tiên kích thích phần thứ hai, phần thứ hai kích thích phần thứ ba, phần thứ ba đến phần thứ tư và cứ như vậy.
Sự khuếch tán dễ qua màng tế bào
Khuếch tán được làm dễ cần đến sự giúp đỡ của protein mang. Protein mang giúp một phân tử hay ion đi qua màng bởi liên kết hóa học với chúng.
Động tác bước và đi bộ: phản xạ tư thế
Các thông tin cảm giác từ bàn chân hay cảm giác tư thế từ các khớp đóng một vai trò quan trọng trong việc điều khiển áp lực bàn chân và bước đi liên tục.
Phản xạ tủy sống gây co cứng cơ
Các xương bị gẫy gửi các xung động về cảm giác đau về tủy sống, gây ra co cơ xung quanh. Khi gây tê cục bộ hay gây tê toàn thân, kích thích đau biến mất, sự co thắt cũng biến mất.
Cung lượng tim: đánh giá theo nguyên lý thay đổi nồng độ ô xy
Đo nồng độ oxy dòng máu tĩnh mạch được đo qua catheter đưa từ tĩnh mạch cánh tay, qua tĩnh mạch dưới đòn và vào tâm nhĩ phải,cuối cùng là tâm thất phải và động mạch phổi.
Các vùng liên hợp: cảm giác thân thể
Kích thích điện vào vùng liên hợp cảm giác bản thể có thể ngẫu nhiên khiến một người tỉnh dậy để thí nghiệm một cảm nhận thân thể phức tạp, đôi khi, chỉ là “cảm nhận” một vật thể như một con dao hay một quả bóng.
Các van tim ngăn sự quay lại của dòng máu kỳ tâm thu
Đặc điểm giải phẫu của van động mạch chủ và van động mạch phổi phải được cấu tạo với một mô sợi đặc biệt mạnh mẽ nhưng cũng phải rất mềm dẻo để chịu đựng được thêm gánh nặng vật lý.
Huyết áp động mạch: kiểm soát bằng lợi liệu áp lực
Lượng dịch vào và ra phải cân bằng tuyệt đối, nhiệm vụ này được thực hiện bởi điều khiển thần kinh và nội tiết và bởi hệ thống kiểm soát tại thận, nơi mà điều hòa bài tiết muối và nước.
Nguyên nhân gây ngoại tâm thu: rối loạn nhịp tim
Ngoại tâm thu thường xuyên gặp trong thông buồng tim, ngoại tâm thu cũng xảy ra khi đứa catheter vào trong buồng thất phải và chén ép nội tâm mạc.
Sự ảnh hưởng lẫn nhau của trục dưới đồi tuyến yên buồng trứng
Nếu nồng độ đỉnh LH không đạt đủ độ lớn, sự rụng trứng sẽ không xảy ra, và được gọi là chu kì không rụng trứng. Các giai đoạn của chu kì sinh dục vẫn tiếp tục, tuy nhiên trứng không rụng làm cho hoàng thể không phát triển.
Chức năng thính giác của vỏ não: cơ chế thính giác trung ương
Mỗi neuron riêng lẻ trong vỏ não thính giác đáp ứng hẹp hơn nhiều so với neuron trong ốc tai và nhân chuyển tiếp ở thân não. Màng nền gần nền ốc tai được kích thích bởi mọi tần số âm thanh, và trong nhân ốc tai dải âm thanh giống vậy được tìm thấy.
Bôi trơn bảo vệ và tầm quan trọng của chất nhày trong đường tiêu hóa
Chất nhày có khả năng khiến cho sự trượt của thức ăn trong đường tiêu hóa rất dễ dàng và ngăn cản sự trầy xước cơ học hoặc sự phân hủy hóa học cho lớp biểu mô.
Điều hòa bài tiết hormone chống bài niệu (ADH)
Khi dịch ngoại bào trở nên quá ưu trương, do áp suất thẩm thấu nên dịch sẽ đi ra ngoài các tế bào receptor thẩm thấu, làm giảm kích thước tế bào và phát ra các tín hiệu lên vùng dưới đồi để tăng bài tiết ADH.