- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Một số bệnh truyền nhiễm lây truyền chủ yếu hoặc có hiệu quả nhất qua quan hệ tình dục. Hầu hết các tác nhân gây bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục đều bị bất hoạt nhanh ở điều kiện môi trường tự nhiên. Đặc biệt các tác nhân gây bệnh có tính lây truyên cao khi tiếp xúc với niêm mạc. Chúng có thể là vi khuẩn (như lậu cầu), xoắn khuẩn (giang mai), chlamydiae (gây viêm niệu đạo, viêm cổ tử cung không phải do lậu cầu), virus (herpes simplex, virus viêm gan B, cytomegalovirus, HIV), hoặc đơn bào (trichomonas). Trong những bệnh do các tác nhân này, các tổn thương ban đầu khu trú ở niêm mạc cơ quan sinh dục hoặc vùng niêm mạc có tiếp xúc tình dục; tuy nhiên bệnh có thể lan toả, và tổn thương những tổ chức và cơ quan không liên quan đến tình dục cũng tương tự như nhiều bệnh không lây nhiễm khác. Tất cả các bệnh lây truyền qua đường tình dục đều có giai đoạn tiềm lâm sàng hoặc tiềm ẩn đóng vai trò quan trọng đối với tính trường diễn của bệnh và sự lây truyền từ người bệnh (thường không có biểu hiện lâm sàng) sang người khác khi có quan hệ tình dục. Xét nghiệm đóng vai trò rất quan trọng để chẩn đoán những bệnh nhân không có triệu chứng. Hay gặp nhất là các bệnh do nhiều tác nhân gây nên đồng thời, vì vậy bất cứ bệnh nhân nào có bệnh lây truyền qua đường tình dục đều phải làm xét nghiệm nhắc lại trong 3 tháng cho đến khi có kết quả huyết thanh.
Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm. Các bệnh lây qua quan hệ tình dục hay gặp nhất là lậu, giang mai, sùi mào gà, nhiễm chlamydia cơ quan sinh dục, nhiễm virus herpes tại cơ quan sinh dục, viêm âm đạo do trichomonas, bệnh hạ cam, u hạch bẹn, nghẻ, rận mu, viêm âm đạo do vi khuẩn (giữa các môi). Tuy nhiên các bệnh như lỵ, viêm gan A, B, C, bệnh do amíp, giardia, Cryptosporidium, salmonella và campylobacterium cũng có thể truyền qua quan hệ tình dục (miệng - hậu môn) đặc biệt HIV và AIDS lây truyền nhiều nhất qua quan hệ tình dục ở những người đồng tính luyến ái, tình dục khác giới cũng lây truyền bệnh này.
Nguy cơ xuất hiện bệnh lây truyền qua đường tình dục sau hành vi cưỡng hiếp còn chưa được nghiên cứu sâu. Nạn nhân của hành vi cưỡng hiếp có tỷ lệ bệnh cao (lậu cầu: 6%, C.trachomatis: 10%, T.vaginalis 15%, và viêm âm đạo do vi khuẩn: 34%), và nguy cơ mắc bệnh sau cưỡng hiếp là rõ rệt nhưng vẫn thấp hơn tỷ lệ trước đó (lậu cầu 6 - 12%, C. trachomatis 4 - 17%, T. vaginalis 12%, giang mai 0,5 - 3% và viêm âm đạo do vi khuẩn là 19%). Các nạn nhân cần được theo dõi trong vòng 24 giờ sau khi bị hiếp, phải làm xét nghiệm đối với lậu cẩu, C. trachomatis (nếu không nuôi cấy được thì có thể làm các test nucleic và test khuyếch đại), phải tìm virus herpes simplex và lấy dịch âm đạo để xét nghiệm đối với trichomonas và các vi khuẩn gây viêm âm đạo. Phải lấy máu ngay để chẩn đoán huyết thanh đối với bệnh giang mai, viêm gan B, HIV. Khám xét theo dõi các bệnh lây truyền qua đường tình dục phải được nhắc lại sau 2 tuần vì mật độ của tác nhân gây bệnh có thể không đủ để cho kết quả nuôi cấy dương tính ở lần khám đầu. Các xét nghiệm huyết thanh đối với giang mai và HIV phải được làm lại trong thời gian 6,12, 24 tuần nếu như xét nghiệm ban đầu cho kết quả âm tính. Nếu người bị cưỡng hiếp được coi là nhiễm bệnh thì phải điều trị kháng sinh dự phòng. Vấn đề điều trị kháng sinh dự phòng còn nhiều bàn cãi. Có một số người cho rằng tất cả các bệnh nhân đều phải điều trị, một số khác thì cho rằng không cần điều trị nếu như không chắc chắn hoặc chỉ cho những bệnh nhân khi họ có yêu cầu. Nếu cần điều trị, phải tiêm vaccin phòng viêm gan B (không cần dùng immunoglobulin đối với viêm gan B; mũi vaccin đầu tiên được tiêm ngay sau đó, còn các mũi tiếp theo tiêm vào tháng thứ 1- 2 và tháng thứ 4 - 6); điều trị bằng ceftriaxon một liều duy nhất 125mg tiêm bắp, phối hợp thêm metromidazol 2g đường uống cũng một liều duy nhất và doxycycin 100mg đường uống, 21ần/ngày trong 7 ngày hoặc azithromycin 1g đường uống, một liều duy nhất. Nếu bệnh nhân có thai có thể thay thế doxycyclin bằng azithromycin và chỉ dùng metronidazol cho những bệnh nhân có thai trên 3 tháng.
Tuy rằng phải làm huyết thanh chẩn đoán HIV cho những người bị cưỡng hiếp khi họ được coi là có nguy cơ, nhưng nguy cơ nhiễm HIV thì hầu như là rất thấp. Vì điều trị dự phòng chống virus không được đặt ra nên cũng không có khuyến cáo chung và điều trị phải phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh do Tularemia
Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.
Bệnh do Hantavirus
Chẩn đoán dựa vào phản ứng huyết thanh học bằng nhuộm hóa học mô miên dịch hoặc bằng kỹ thuật khuyếch đại PCR của ADN virus trong tổ chức.
Bệnh đậu do rickettsia
Bạch cầu giảm, nồng độ kháng thể tăng bằng phản ứng kết hợp bổ thể hoặc dùng phản ứng huỳnh quang gián tiếp sử dụng globulin kháng rickettsia liên hợp.
Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng.
Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch
Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.
Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)
Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.
Nhiễm echovirus
Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.
Bệnh uốn ván
Triệu chứng đầu tiên là đau và tê vùng vi khuẩn xâm nhập rồi tiếp đến là co cứng cơ vùng lân cận. Tuy nhiên, thường gặp triệu chứng đầu tiên đưa bệnh nhân đến khám là cứng hàm, cứng cổ, khó nuốt và kích thích.
Rubeon: bệnh sởi Đức
Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.
Nhiễm Adenovirus
Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.
Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)
Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều
Bệnh sởi
Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều.
Những hội chứng do virus epstein barr
Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.
Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae
Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.
Vết thương do người và xúc vật cắn
Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn, Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm
Test quá mẫn và giải mẫn cảm
Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết.
Bệnh do rickettsia
Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.
Hội chứng Kawasaki
Biến chứng chính là viêm động mạch vành, xảy ra ở 20% số trường hợp không điều trị. Những yếu tố liên quan tới phát triển phình động mạch vành là tăng bạch cầu, tăng protein phản ứng C.
Bệnh do Legionella
Thuốc đặc trị bệnh do Legionella gây nên là erythromycin, liều ban đầu là 1g, tiêm tĩnh mạch ngày 4 lần, sau đó giảm xuống còn 500mg ngày uống 4 lần khi bệnh có dấu hiệu cải thiện; thời gian điều trị là 14 - 21 ngày.
Bệnh do Brucella
Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.
Các giai đoạn lâm sàng của Giang mai
Giang mai ẩn là thời kỳ yên lặng sau khi các tổn thương thứ phát mất đi và trước khi các triệu chứng giang mai tái phát xuất hiện.
Dengue: bệnh virus toàn thân
Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.
Bệnh u hạt lympho hoa liễu
Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.
Bệnh do Nocardia
Bệnh có thể khuếch tán đến bất cứ bộ phận nào trong cơ thể. Áp xe não và các cục dưới da là hay gặp nhất, nhưng chỉ gặp ở người bị suy giảm miễn dịch.
Các bệnh do lậu cầu khuẩn
Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.
