Các bệnh lây truyền qua đường tình dục

2016-02-28 10:19 PM

Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Một số bệnh truyền nhiễm lây truyền chủ yếu hoặc có hiệu quả nhất qua quan hệ tình dục. Hầu hết các tác nhân gây bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục đều bị bất hoạt nhanh ở điều kiện môi trường tự nhiên. Đặc biệt các tác nhân gây bệnh có tính lây truyên cao khi tiếp xúc với niêm mạc. Chúng có thể là vi khuẩn (như lậu cầu), xoắn khuẩn (giang mai), chlamydiae (gây viêm niệu đạo, viêm cổ tử cung không phải do lậu cầu), virus (herpes simplex, virus viêm gan B, cytomegalovirus, HIV), hoặc đơn bào (trichomonas). Trong những bệnh do các tác nhân này, các tổn thương ban đầu khu trú ở niêm mạc cơ quan sinh dục hoặc vùng niêm mạc có tiếp xúc tình dục; tuy nhiên bệnh có thể lan toả, và tổn thương những tổ chức và cơ quan không liên quan đến tình dục cũng tương tự như nhiều bệnh không lây nhiễm khác. Tất cả các bệnh lây truyền qua đường tình dục đều có giai đoạn tiềm lâm sàng hoặc tiềm ẩn đóng vai trò quan trọng đối với tính trường diễn của bệnh và sự lây truyền từ người bệnh (thường không có biểu hiện lâm sàng) sang người khác khi có quan hệ tình dục. Xét nghiệm đóng vai trò rất quan trọng để chẩn đoán những bệnh nhân không có triệu chứng. Hay gặp nhất là các bệnh do nhiều tác nhân gây nên đồng thời, vì vậy bất cứ bệnh nhân nào có bệnh lây truyền qua đường tình dục đều phải làm xét nghiệm nhắc lại trong 3 tháng cho đến khi có kết quả huyết thanh.

Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm. Các bệnh lây qua quan hệ tình dục hay gặp nhất là lậu, giang mai, sùi mào gà, nhiễm chlamydia cơ quan sinh dục, nhiễm virus herpes tại cơ quan sinh dục, viêm âm đạo do trichomonas, bệnh hạ cam, u hạch bẹn, nghẻ, rận mu, viêm âm đạo do vi khuẩn (giữa các môi). Tuy nhiên các bệnh như lỵ, viêm gan A, B, C, bệnh do amíp, giardia, Cryptosporidium, salmonella và campylobacterium cũng có thể truyền qua quan hệ tình dục (miệng - hậu môn) đặc biệt HIV và AIDS lây truyền nhiều nhất qua quan hệ tình dục ở những người đồng tính luyến ái, tình dục khác giới cũng lây truyền bệnh này.

Nguy cơ xuất hiện bệnh lây truyền qua đường tình dục sau hành vi cưỡng hiếp còn chưa được nghiên cứu sâu. Nạn nhân của hành vi cưỡng hiếp có tỷ lệ bệnh cao (lậu cầu: 6%, C.trachomatis: 10%, T.vaginalis 15%, và viêm âm đạo do vi khuẩn: 34%), và nguy cơ mắc bệnh sau cưỡng hiếp là rõ rệt nhưng vẫn thấp hơn tỷ lệ trước đó (lậu cầu 6 - 12%, C. trachomatis 4 - 17%, T. vaginalis 12%, giang mai 0,5 - 3% và viêm âm đạo do vi khuẩn là 19%). Các nạn nhân cần được theo dõi trong vòng 24 giờ sau khi bị hiếp, phải làm xét nghiệm đối với lậu cẩu, C. trachomatis (nếu không nuôi cấy được thì có thể làm các test nucleic và test khuyếch đại), phải tìm virus herpes simplex và lấy dịch âm đạo để xét nghiệm đối với trichomonas và các vi khuẩn gây viêm âm đạo. Phải lấy máu ngay để chẩn đoán huyết thanh đối với bệnh giang mai, viêm gan B, HIV. Khám xét theo dõi các bệnh lây truyền qua đường tình dục phải được nhắc lại sau 2 tuần vì mật độ của tác nhân gây bệnh có thể không đủ để cho kết quả nuôi cấy dương tính ở lần khám đầu. Các xét nghiệm huyết thanh đối với giang mai và HIV phải được làm lại trong thời gian 6,12, 24 tuần nếu như xét nghiệm ban đầu cho kết quả âm tính. Nếu người bị cưỡng hiếp được coi là nhiễm bệnh thì phải điều trị kháng sinh dự phòng. Vấn đề điều trị kháng sinh dự phòng còn nhiều bàn cãi. Có một số người cho rằng tất cả các bệnh nhân đều phải điều trị, một số khác thì cho rằng không cần điều trị nếu như không chắc chắn hoặc chỉ cho những bệnh nhân khi họ có yêu cầu. Nếu cần điều trị, phải tiêm vaccin phòng viêm gan B (không cần dùng immunoglobulin đối với viêm gan B; mũi vaccin đầu tiên được tiêm ngay sau đó, còn các mũi tiếp theo tiêm vào tháng thứ 1- 2 và tháng thứ 4 - 6); điều trị bằng ceftriaxon một liều duy nhất 125mg tiêm bắp, phối hợp thêm metromidazol 2g đường uống cũng một liều duy nhất và doxycycin 100mg đường uống, 21ần/ngày trong 7 ngày hoặc azithromycin 1g đường uống, một liều duy nhất. Nếu bệnh nhân có thai có thể thay thế doxycyclin bằng azithromycin và chỉ dùng metronidazol cho những bệnh nhân có thai trên 3 tháng.

Tuy rằng phải làm huyết thanh chẩn đoán HIV cho những người bị cưỡng hiếp khi họ được coi là có nguy cơ, nhưng nguy cơ nhiễm HIV thì hầu như là rất thấp. Vì điều trị dự phòng chống virus không được đặt ra nên cũng không có khuyến cáo chung và điều trị phải phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Bài viết cùng chuyên mục

Các giai đoạn lâm sàng của Giang mai

Giang mai ẩn là thời kỳ yên lặng sau khi các tổn thương thứ phát mất đi và trước khi các triệu chứng giang mai tái phát xuất hiện.

Bệnh u hạt lympho hoa liễu

Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.

Tạo miễn dịch chủ động chống lại các bệnh nhiễm khuẩn

Nhiều loại vaccin được khuyên dùng cho người lớn tùy thuộc theo tình trạng tiêm phòng trước đó của mỗi người và những nguy cơ phoi nhiễm với một số bệnh.

Bệnh xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục

Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương.

Bệnh do Chlamydia pneumoniae chủng TWAR

Chlamydia pneumoniae gây viêm phổi, viêm phế quản và có mối liên quan với bệnh mạch vành qua dịch tễ huyết thanh học. Bệnh cảnh viêm phổi kiểu không điển hình.

Viêm dạ dày ruột do Escherichia Coli

Kháng sinh không có tác dụng, điều trị nâng đỡ là chủ yếu. Khi có tiêu chảy và hội chứng urê huyết - huyết tán đồng thời, cần nghĩ tới E. coli gây xuất huyết và phát hiện chúng.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)

Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.

Sốt phát ban do mò truyền

Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.

Bệnh do Nocardia

Bệnh có thể khuếch tán đến bất cứ bộ phận nào trong cơ thể. Áp xe não và các cục dưới da là hay gặp nhất, nhưng chỉ gặp ở người bị suy giảm miễn dịch.

Sốt xuất huyết

Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.

Sốt vàng

Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần.

Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài

Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Dengue: bệnh virus toàn thân

Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.

Viêm tủy xương do tụ cầu vàng

Có thể là nhiễm khuẩn cấp tính với cầc triệu chứng, khu trú và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân. Nhưng cũng có thể tiến triển âm ỉ, chỉ thấy đau mơ hồ.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu

Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.

Chlamydia psittaci và bệnh sốt vẹt

Bệnh thường khởi phát nhanh, có sốt, ớn lạnh, đau cơ, ho khan và đau đầu. Các dấu hiệu bệnh như mạch nhiệt phân ly, gõ phổi đục và nghe phổi có ran.

Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.

Cúm

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.

Viêm dạ dày ruột do Salmonella

Bệnh thường tự hết, nhưng có thể gặp tình trạng vi khuẩn huyết có khu trú ở khớp hoặc trong xương, nhất là ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm.

Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn

Trong trường hợp có tổn thương hệ thần kinh trung ương dịch não tủy cho thấy tăng áp lực, các tế bào lympho bất thường và protein.

Quai bị

Nhậy cảm đau vùng mang tai và vùng mặt tương ứng phù nề là dấu hiệu thực thể hay gặp nhất. Đôi khi sưng ở một tuyến giảm hoàn toàn trước khi tuyến kia bắt đầu sưng.

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.