Thăm dò hình thái quang học thận

2011-10-26 03:37 PM

X quang thận là một loại phương pháp được áp dụng phổ biến nhất và có giá trị lớn để thăm dò hình thái của thận. Ngày nay có nhiều phương pháp khác nhau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

X quang thận

X quang thận là một loại phương pháp được áp dụng phổ biến nhất và có giá trị lớn để thăm dò hình thái của thận. Ngày nay có nhiều phương pháp khác nhau. Có những phương pháp như chụp xinê thận bằng x quang, chụp tĩnh mạch thận, còn ít được áp dụng và ít có giá trị thực tế, nên không nói tới trong bài này.

Dưới đây là những phương pháp thông thường được áp dụng nhiều trong thực tế.

Chụp thận không có thuốc cản quang

Phương pháp: Thụt tháo trước cho sạch phân và hết hơi. Chụp phim thẳng, nghiêng, và chếch. Chụp tốt có thể rõ được hình thận với bờ của nó.

Kết quả:

Bình thường: Vị trí và khối lượng: thận nằm hai bên cột sống, cực trên ngang mỏm ngang L11, cực dưới ngang mỏm ngang TL3. thận phải thấp hơn thận trái một chút. Bờ trong của thận nằm sát bờ ngoài cơ thắt lưng chậu, chiều ngang khoảng 5cm (qua giữa thận).

Hình thái: Hình bầu dục, bờ ngoài lồi, bờ trong lõm.

Bệnh lý: Chụp thận theo phương pháp này có thể  thấy hai dấu hiệu bất thường:

Hình thận to hơn bình thường: cần chụp thận có thuốc cản quang để xác định chắc  chắn.

Sỏi: Chụp thận không có thuốc cản quang chủ yếu là để tìm sõi.

Sỏi Canxi photphat, canxi cacbonat, oxalat, amoni photphat, magie thấy được hình cản quang, còn sỏi axit uric, xantin, xystin, không thấy được vì không cản quang.

Sỏi có thể hình tròn, bầu dục, hình ngón tay đi găng, bờ tròn hoặc nhẵn nham nhở, có thể nhầm sỏi với:

 Mỏm ngang cột sống, cục vôi hoá, hạch bụng vôi hoá, điểm xương quá đậm của xương chậu.

Cục phân.

Sỏi túi mật: Chụp nghiêng,  sỏi túi mật ở trước cột sống, sỏi thận ở sau cột sống.

Chụp thận có thuốc cản quang qua đường tĩnh mạch

Mục đích:

Để thăm dò thay đổi hình thái của thận.

Để thăm dò chức năng thận.

Do đó giúp cho chẩn đoán xác định, chẩn đoán nguyên nhân.

Chỉ định:

Trong tất cả những trường hợp bệnh lý của thận, tiết niệu như: Sỏi thận, lao thận, ung thư thận, đái ra máu chưa rõ nguyên nhân, đái dưỡng chấp…

Để chẩn đoán phân biệt thận với một khối u ổ bụng.

Chống chỉ định:

Khi có suy thận: Trước khi chụp phải thử urê máu, nếu trên 1g/lít không được làm.

Khi có dị ứng với iot: trước khi làm cũng phải thử phản ứng với iot trước: Tiêm ½ - 1ml thuốc cản quang có iot  vào tĩnh mạch xem có phản ứng  gì không.

Khi đang đái ra máu đại thể.

Đang có suy tim.

Có thai hoặc  bụng có cổ trướng: Làm cản trở việc ép bụng trong khi chụp thận.

Phương pháp: Cần phải thụt tháo phân trước.

Giai đoạn đầu: Chụp 1 phim thường trước, sau dó tiêm thuốc cản quang rồi ép  bụng  để  ép một  niệu quản không cho nước tiểu có thuốc cản quang chảy ngay xuống bàng quang.

Giai đoạn ép: 2-3 phút  sau khi tiêm, chụp một phim rồi sau đó cứ 15 phút chụp một phim. Chụp 2-3 phim

Giai đoạn bỏ ép: Sau khi bỏ ép, chụp ngay một phim để xem niệu quản và bàng quang.

Kết quả:

Bình thường:

Hình thái, vị trí, khối lượng thận: Đã nói ở trên.

Thời gian hiện hình.

Thận: 5-6 phút đã thấy được hiện hình.

Đài và bể thận:  Phải sau 15 phút mới hiện hình rõ.

Hình đài và bể thận: Bể thận chia làm ba nhóm đài thận, mỗi đài thận to lại chia thành 2-3 đài nhỏ. Mỗi đài nhỏ tận cùng bằng hình càng cua. Hướng đi của các đài thận có khác nhau, nhóm trên đi lên trên, nhóm giữa đi ngang ra ngoài, nhóm   ưới đi chếch xuống dứoi và ra ngoài.

Niệu quản: Có chỗ phình, chỗ thắt do co bóp, nhưng không to, đường kính khoảng 0,5  đến 0,7 cm, niệu quản có thể bị cong.

Thay đổi bệnh lý: Chủ yếu là ở thân và đài bể thận với những biến đổi sau:

Về vị trí: Thận sa, chụp khi đứng và nhảy vài cái trước khi chụp, thận sẽ  nằm ở thấp hơn, có khi ở hố chậu.

Về hình thái và khối lượng:

- Thận nhỏ lại.

Trong trường hợp bệnh kéo dài như lao thận  vôi hoá (thận mátit), thận không hoạt động sẽ nhỏ lại.

Viêm thận mạn tính.

- Thận to ra:

Có những trường hợp sau đây làm thận to ra do ứ nước bể thận.

Thận to ra nhưng vẫn giữ được hình dáng của thận: Bể thận và đài thận giãn to, có khi thành hình tròn như những quả bóng.

Chỗ tắc, thuốc không qua được hoặc qua rất chậm, dưới chỗ tắc đó, đài bể thận và niệu quản vẫn bình thường.

Thời gian ngấm thuốc đầy đài và bể thận rất chậm có khi hàng giờ.

Nguyên nhân chủ yếu của ứ nước bể thận là sỏi. Bằng phương pháp chụp này có thể nhìn thấy được hình thái của sỏi, có khi tròn, có khi hình san hô, khối lượng có thể bằng hạt đỗ hoặc to hơn, có khi nằm ở đài thận, bể thận hoặc niệu đạo. Ngoài ra có các nguyên nhân khác như dây chằng hoặc  nhánh động mạch chủ vắt ngang quan niệu quản, có thai..

Lao thận.

Thời kỳ đầu: các gai thận bị tổn thương trước tiên, nên có hình càng cua không nhẵn mà bị gặm dang dở. Đài thận cũng có thể bị gặm mòn.

Thời kỳ tiến triển: Các đài thận bị tắc, bị cắt cụt hay ngược lại, bị giãn ra thành hình tròn hình ngón tay đeo găng.

Có khi thấy được các hình hang, nếu các hang này thông với đài thận hoặc bể thận.

U thận: Ngoài hình thận to, bờ lồi lõm làm thay đổi hình dáng của thận, đặc biệt ta thấy các thay đổi bể thận và đài thận.

Đài thận bị kéo dài ra, lệch hướng đi, bị cắt cụt hoặc bị giãn co. Có khi thấy hình đài thận bị đè bẹp thành hình “vết lõm ăn ngón tay” hoặc “hình khuyết như bờ cong dạ   ày”, … nếu là thận nhiều nang, thường thấy những thay đổi ở cả hai bên. Còn trong ung thư thận, những thay đổi đó  thường ở một bên thận.

Trường hợp khối u bể thận thì bể thận bị hẹp lại, nếu là khối u ác tính thì bờ nham nhở, nếu là khối lành tính thì bờ nhẵn. 50% trường hợp này là lành tính.

Đái dưỡng chấp: Ở đây hình thái và khối lượng thận, hệ thống các đài thận và bể thận không biến dạng. Nhưng từ các đài thận có chỗ thông với hạch mạch tạo thành một đám rối xung quanh thận, chụp “thận ngược dòng” sẽ thấy rất rõ chỗ thông và đám rối này.

Các hình bất thường ở niệu quản và bàng quang, ngoài những thay đổi bếnh lý ở thận, có thể thấy thay đổi ở:

Niệu quản: Sỏi niệu quản, niệu quản bị giãn, bị hẹp hoặc bị đè bẹp làm phần trênniệu quản bị giãn, niệu quản dị dạng (hai niệu quản).

Bàng quang:  Sỏi bàng quang, u bàng quang.

Thay đổi về chức năng: Các tổn thương thận trên đây, khi đã ảnh hưởng đến chức phận lọc cầu thận, gây suy thận thì thời gian bài tiết chấtcản quang sẽ chậm lại: không phải là 15 phút mà phải 30 phút  hay hơn nữa, đài và bể thận mới hiện hình  và thường không rõ. Có khi chất cản quang không được bài tiết. Lúc đó ta gọi là thận câm hay thận bị loại trừ. Muốn biết tổn thương thận trong trường hợp đó, phải “ chụp thận ngược   òng”.

Các tật bẩm sinh: Chỉ có một thận hoặc có 3 thận, thận hình móng ngựa, hai thận cùng bên, hai thận chung một niệu quản…

Chụp thận ngược dòng có thuốc cản quang

Phương pháp: Dùng một dụng cụ đặc biệt là máy chụp bể thận ngược dòng, qua máy soi đưa một ống thông lên tới bể thận qua lỗ niệu quản; bơm thuốc cản quang theo ống thông vào bể thận rồi chụp. Dụng cụ này giống như máy soi bàng quang nhưng có thêm bộ phận để đưa ống thông vào bể thận được.

Ưu điểm và chỉ định:

Ưu điểm:

Đưa thuốc thẳng vào bể thận, thuốc không bị pha loãng. Do đó hình đài và bể thận rất rõ, rõ hơn chụp thận qua đường tĩnh  mạch.

Ngoài việc để chụp x quang, còn có tác dụng:

Rửa bể thận, đưa thuốc kháng sinh vào bể thận.

Lấy nước tiểu thẳng từ trên thận xuống thử, và lấy được nước tiểu riêng rẻ từng bên.

Chỉ định:

Vì có những  ưu điểm trên, nên có  các chỉ định:

Tất cả những trường hơp mà không thể thực hiện được chụp thận bằng đường tĩnh mạch như: dị ứng với iot, không ép được bụng vì người bệnh có thai hoặc cổ trướng.

Chụp thận qua đường tĩnh mạch kết quả không rõ ràng.

Đái dưỡng chấp: chụp ngược dòng bơm với áp lực mạnh hơn nên thấy đám rối bạch mạch rõ hơn trong chụp thận bằng đường tĩnh mạch.

Nhược điểm và chống chỉ định:

Nhược điểm:

Chỉ biết được hình đài, bể thận, mà không biết được khối lượng thận, hình dáng thận, không biết được chức năng thận.

Dễ bị nhiễm khuẩn từ dưới đưa lên: Trong khi làm phải thực hiện vô khuẩn. Nếu bơm mạch dễ gây vỡ đài thận làm chảy máu thận.

Phức tạp hơn chụp đường tĩnh mạch.

Chống chỉ định:

Có nhiễm khuẩn ở phần dưới - niệu đạo, bàng quang.

Kết quả:

Thấy đài, bể thận như chụp thận bằng đường tĩnh mạch nhưng rõ hơn.

Chụp thận bơm hơi sau màng bụng

Ngoài phương pháp chụp thận có thuốc cản quang, người ta còn chụp thận bằng cách bơm một chất khí vào vùng ổ thận để tách thận khỏi tố chức chung quanh, nhìn thấy rất rõ hình dáng, khối lượng thận và cả tuyến thượng thận nữa. Nó là phương pháp tốt nhất để  chụp tuyến thượng thận.

Nhưng nó chỉ cho biết hình thái bề ngoài của thận, thượng thận mà thôi nó không cho biết tình trạng đài thận, bể thận cũng như không biết được chức năng thận.

Phương pháp và cách tiến hành:

Dùng kim chọc thẳng vào vùng thận rồi bơm hơi vào.

Phương pháp này có nhược điểm:

Dễ chọc vào thận, nguy hiểm vì dễ chảy máu ở thận.

Ít có khả năng chọc mũi kim vào đúng  hố thận, hơi vào không tập trung ở hố thận.

Chỉ làm được một bên.

Đau.

Phương pháp này ít tác dụng.

Bơm hơi từ dưới xương cùng cụt lên qua một kim chọc ở vùng đó sát mặt trước xương cụt: Hơi sẽ theo tổ chức lỏng lẻo sau màng bụng đi lên tập trung ở vùng thận. Phương pháp này có kết quả tốt nên hay áp dụng. Cách tiến hành chụp như sau:

Tư thế người bệnh: nằm sấp quì hai đầu gối để mông cao, nếu chụp cả hai bên. Hoặc nằm nghiêng co hai chân nếu chụp một bên. Dùng một kim dài chọc ở mỏm xương cụt  lên phía trước, rồi đi  sát mặt  trước xương cụt  hoặc sát bờ  trước xương cụt đi lên, sâu khoảng 6-7 cm. Cần thăm trực tràng để kiểm tra kim khỏi chọc vào trực tràng. Sau đó bơm hơi:

Hơi có thể là không khí, oxy, nitơ hoặc cacbogen.

Khối lượng bơm: chụp hai bên, bơm 1,5 đến 1,7 lít, chụp một bên, bơm 1 lít.

Bơm xong, để người bệnh ngồi dậy 5-10 phút cho hơi đi lên hố chậu. Sau đó chụp. Tốt nhất là bơm hơi   ưới sự  kiểm tra của Xquang để biết hơi có vào hố chậu thận hay không và có vào đều hai bên hay không đều.

Chỉ định:

Chụp tuyến thượng thận thăm dò hình thái.

Để phân biệt khối u thận với tuyến thượng thận.

Để phân biệt các khối u trong ổ bụng với  khối khối u thận hay thượng thận.

Những trường hợp không chụp thận được bằng đường tĩnh mạch, đường ngược dòng hoặc làm được nhưng kết quả không rõ ràng.

Phối hợp với chụp thận ngược dòng: sẽ thấy được rất rõ hình thể thận và đài bể thận.

Tai biến:

Gây đau: Đau lưng, đau bụng.

Gây tràn khí.

Ở dưới da: Sờ sẽ lép bép.

Ở trung thất: Người bệnh khó thở. Cần cho người bệnh nằm sấp và đầu thấp,  mông cao.

Tắc mạch do hơi: Rất hiếm, gây liệt, hôn mê.

- Chọc  kim vào trực tràng: gây chảy máu trực tràng.

Kết quả:

Như chụp thận không thuốc cản quang, ngoài ra còn thấy thêm cả tuyến thượng thận. Tuyến thượng thận to ra, trong các khối u của vỏ hay tuỷ thượng thận. Có thể thấy các nốt vôi hoá của thượng thận.

Chụp thận qua đường động mạch

Phương pháp: đưa một ống thông qua động mạch đùi lên động mạch chủ, tới sát động mạch thận (TL1).  Bơm chất cản quang vào chụp thật mạnh. Hoặc dùng một kim chọc thẳng vào vùng thắt lưng tới động mạch chủ ngang TL1, rối bơm chấtcản quang vào như trên và chụp.

Trong thì đầu: 3 giây chụp một phim, chụp 2 phim, sau đó 12 giây chụp 1 phim nữa.

Kết quả và giá trị:

Về thời gian bình thường:

Giây 1 đến 4 (thì động mạch): Thấy động mạch thận và các nhánh.

Giây 3 đến 6 (thì thận): Thấy hình thận.

Giây 12 (thì tĩnh mạch).

Giây thứ 60 (thì bài tiết): Hình đài bể thận.

Bệnh lý:  Thì động mạch kéo dài, chứng tỏ hẹp động mạch thận.

Thì tĩnh mạch kéo dài: Có viêm tắc tĩnh mạch thận.

Thì bài tiết kéo dài: Chứng tỏ khả năng lọc của thận  giảm vì suy thận hoặc do có chèn ép ở đường tiết niệu.

Chỉ định:

Tăng huyết áp do bệnh động mạch thận.

Khối u thận: Nơi có khối u có nhiều huyết quản mói sinh. Ở dấy sẽ thấy một mạng lưới dày đặc huyết quản.

Bệnh thận bẩm sinh.

Chống chỉ định tuyệt đối:

Khi có triệu chứng suy thận.

Chụp thận bằng phóng xạ

Dùng chất lợi niệu thuy ngân mà thủy ngân là Hg203 phóng xạ, hoặc biclorua Hg mà Hg107.

Tiêm 1-1,5milicuri vào tĩnh mạch. Dùng máy phát hiện phóng xạ di động trên vùng thận để tìm vị trí giới hạn hình thù của thận, và phát hiện những bóng khuyết của nang thận, u thận, teo thận. Đây còn là một phương pháp thăm dò  chức năng thận nhờ vào việc đo độ phóng xạ của thận. Phương  pháp này  hiện nay chưa được áp dụng  rộng rãi và chưa có kết quả thực tế.

Soi bàng quang

Phương pháp

Dùng máy soi đưa vào bàng quang để soi trực tiếp niêm mạc bàng quang và dị vật.

Phương pháp  này phải thực hiện vô khuẩn: rửa sạch lỗ niệu đạo quy đầu, âm hộ trước khi đưa máy soi vào. Máy soi phải tiệt khuẩn bằng trioxymetylen, phải sát khuẩn tay trước khi làm.

Kết quả

Bình thường: Niêm mạc vùng tam giác cổ bàng quang màu hồng. Các nơi khác màu trắng nhạt.

Có một vài mạch máu nhỏ, thỉnh thoảng có nước tiểu phụt từ trên niệu quản xuống.

Giá trị bệnh lý:

Khối lượng bàng quang nhỏ: Chỉ đưa được một khối lượng rất ít (50-60ml) khi bơm nước vào bàng quang. khối lượng bàng quang nhỏ chứng tỏ viêm bàng quang mạn tính, lao bàng quang.

Sỏi bàng quang:

Tình trạng niêm mạc bàng quang:

Đỏ xung huyết, trong viêm bàng quang cấp.

Có những dải xơ xoáy cuộn như cơn lốc, trong viêm bàng quang mạn.

Có những ổ loét ở dưới hai lỗ niệu quản, vùng đỉnh bàng quang, trong lao bàng quang.

Các loại khối u bàng quang.

Gĩan tĩnh mạch bàng quang.

Ngoài những tổn thương ở bàng quang ra, còn có thể nhìn thấy nước tiểu không bình thường ở thận chảy xuống: mủ, máu.

Trong nghiệm pháp bài tiết chất màu, soi bàng quang giúp cho ta biết  thời gian thận bài tiết chất màu, thận nào bài tiết nhanh hay chậm.

Chống chỉ định

Niệu đạo đang có mủ.

Bài viết cùng chuyên mục

Rối loạn Glucose (đường) máu

Tế bào trong đảo Langerhans của tụy tạng tiết ra insulin là chất làm hạ glucoza máu là chủ yếu, Glucoza tiết ra từ tế bào trong đảo Langerhans cũng có tác dụng.

Mất khứu giác: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Mất khứu giác là một dấu hiệu quan trọng có liên quan đến thùy trán (ví dụ. u màng não) hoặc thoái háo thần kinh (ví dụ. bệnh Alzheimer), nhưng nguyên nhân thường gặp nhất là rối lọan trong mũi.

Móng lõm hình thìa: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Móng lõm hình thìa có liên quan đến mềm giường và chất nền móng tay, nhưng chưa giải thích rõ ràng sự lên quan này. Có ít bằng chứng chứng minh móng lõm hình thìa là một dấu hiệu trong thiếu máu thiếu sắt.

Thăm khám chuyên khoa thần kinh

Tuỳ theo tầm quan trọng và tình hình của triệu chứng mà phải tiến hành thêm các loại khám nghiệm chuyên khoa khác.

Khám phản xạ

Mỗi phản xạ tương ứng với ba khoanh tuỷ. Theo qui ước, ta chỉ dùng khoanh giữa để chỉ. Ví dụ phản xạ bánh chè tương ứng ở tuỷ lưng L3. Hình thức cơ bản của hoạt động thần kinh là hoạt động phản xạ.

Yếu cơ ức đòn chũm và cơ thang (Liệt thần kinh phụ [CNXI])

Liệt thần kinh phụ hầu hết là do tổn thương thần kinh ngoại biên thứ phát sau chấn thương hoặc do khối u. Liệt thần kinh phụ có thể không ảnh hưởng đến cơ ức đòn chũm vì các nhánh tới cơ này tách sớm ra khỏi thân chính của dây thần kinh.

Thăm dò chức năng hô hấp

Giữa phổi và tim có liên quan chặt chẽ tim phân phối O2 cho cơ thể và đưa CO2 lên phổi, nên những biến đổi của quá trình thông khí và trao đổi khi đều ảnh hưởng lên tim mạch.

Thở thất điều: tại sao và cơ chế hình thành

Giống như nhiều bất thường thở khác, người ta cho rằng là do sự gián đoạn của hệ thống hô hấp ở thân não, đặc biệt là tổn thương ở hành não.

Dấu hiệu Trendelenburg: tại sao và cơ chế hình thành

Nếu rối loạn chức năng cơ hoặc dây thần kinh quá có thể làm co cơ không hiệu quả, để giữ được thăng bằng, chân đối diện phải trùng xuống hoặc nghiêng xuống dưới.

Âm thổi tâm thu: âm thổi hở van ba lá (và dấu hiệu Carvello)

Có nhiều nguyên nhân có thể gây hở van ba lá. Thường gặp nhất là thứ phát do lớn thất phải và không phải do bệnh lý ngay tại van gây âm thổi hở van ba lá (và dấu hiệu Carvello).

Thất điều: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Các cấu trúc trung tâm tiểu não (ví dụ: thùy nhộng và thùy nhung nhân) phối hợp vận động với hệ cơ thông qua các con đường dẫn truyền vận động theo chiều dọc. Tổn thương các cấu trúc này dẫn đến thất điều và lảo đảo.

Rối loạn chuyển hóa Canxi

Co giật xuất hiện đột ngột có thể không có dấu hiệu báo trước, nhiều trường hợp co giật cắn phải lưỡi. Cơn giật diễn ra nhanh chóng, sau cơn tỉnh hoàn toàn.

Hội chứng đông đặc

Đông đặc phổi là một tình trạng bệnh lý ở nhu mô phổi có thể phát hiện được trên lâm sàng và x quang. Nguyên nhân có rất nhiều, đòi hỏi phải kết hợp thăm khám người bệnh với các xét nghiệm cận lâm sàng để có chẩn đoán đúng.

Bướu giáp: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Sự kích thích TSH của tế bào tuyến giáp gây tăng sản tế bào thứ phát nhằm làm giảm nồng độ hormone giáp bởi những rối loạn với việc sản xuất và tiết chế hormone giáp.

Tăng áp lực tĩnh mạch cảnh: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Nhiều nghiên cứu đã khẳng định giá trị của tăng áp lực tĩnh mạch cảnh. Nếu áp lực tăng, áp lực tĩnh mạch cảnh có thể giúp tiên lượng áp lực của tĩnh mạch trung tâm và tình trạng thể tích dịch.

Bệnh bạch biến nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Được tìm thấy ở 20% bệnh nhân mắc thiếu hormon tuyến vỏ thượng thận nguyên phát (bệnh Addison). Ngoài ra, triệu chứng này cũng gặp trong bệnh thiếu máu ác tính.

Dấu nảy thất phải: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Tăng gánh gây phì đại thất phải và làm cho thất phải nằm sát với thành ngực. Trong hở hai lá, nhĩ trái trở thành một vật đệm vùng đáy tim do tăng thể tích ở thì tâm thu đẩy tâm thất ra phía trước.

Hội chứng tăng áp lực nội sọ

Hộp sọ là một cấu trúc cứng có một thể tích hữu hạn và hằng định, trong hộp sọ có tổ chức não, máu và dịch não tủy, các thành phần này có vai trò trong việc tạo nên áp lực nội sọ.

Mạch động mạch nhịp đôi: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Mạch nhịp đôi được tạo ra bởi một nhịp xoang bình thường theo sau bởi sự co bóp sớm. Nhịp sớm có thể tích tâm thu nhỏ hơn và vì thế, cường độ của mạch thay đổi giữa hai nhịp.

Cơ bản về điện tâm đồ

Bình thường xung động đầu tiên xuất phát ở nút xoang nên nhịp tim gọi là nhịp xoang, Trường hợp bệnh lý, xung động có thể phát ra từ nút Tawara hay ở mạng Purkinje.

Lồng ngực nở không đều: tại sao và cơ chế hình thành

Sự giãn nở đều 2 bên của lồng ngực phụ thuộc vào hệ thống cơ, sự hoạt động bình thường của hệ thần kinh và sự đàn hồi của phổi. Vì thế, bất kì sự bất thường nào ở thần kinh, đều có thể gây nên lồng ngực nở ra không đều.

Phản xạ cằm: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Phản xạ cằm tăng là triệu chứng của tổn thương neuron vận động trên hai bên, phía trên cầu não. Mất chi phổi thần kinh trên nhân vận động thần kinh sinh ba làm tăng tính nhạy cảm của các neuron vận động alpha chi phối cho cơ nhai.

Thăm dò chức năng thận

Theo Ludwig, Cushny thì cầu thận là một màng lọc bán thẩm thấu, lọc các chất có trọng huyết tương, trừ protein và mỡ. Oáng thận sẽ tái hấp thu một số lớn nước để thành nước tiểu thực sự.

Rối loạn cân bằng acid bazơ

Để duy trì nồng độ H ở các khu vực nội và ngoại bào trong phạm vi phù hợp với điều kiện sống và hoạt động của tế bào, các axit này luôn luôn được trung hoà.

Yếu cơ gốc chi trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Triệu chứng này xuất hiện ở 60-80% bệnh nhân cường giáp, ngoài ra nó cũng xuất hiện trong nhiều bệnh lý nội tiết và các rối loạn khác. Hiếm khi yếu cơ gốc chi là biểu hiện đầu tiên của bệnh cường giáp.