- Trang chủ
- Sách y học
- Triệu chứng học nội khoa
- Khám và chẩn đoán phù
Khám và chẩn đoán phù
Phù là hiện tượng ứ nước ở trong các tổ chức dưới da hoặc phủ tạng, Sự ứ nước đó có thể gây bởi nhiều cơ chế, cho nên phù là triệu chứng của rất nhiều bệnh.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Phù là hiện tượng ứ nước ở trong các tổ chức dưới da hoặc phủ tạng. Sự ứ nước đó có thể gây bởi nhiều cơ chế, cho nên phù là triệu chứng của rất nhiều bệnh, nhiều khi dễ, chẩn đoán được ngay, nhưng cũng có khi rất khó.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi không nói đến chẩn đoán phù ở phủ tạng (phù não, phù phổi) có những tính chất riêng biệt về lâm sàng, mà chỉ nói đến phù ưới da.
Cách khám một người bệnh phù
Phát hiện phù thường dễ, vì:
Trong trường hợp rõ
Sự ứ nước trong tổ chức dưới da thường làm cho:
Những bệnh có cảm giác nặng nề.
Những vùng bị sưng phù to, căng mọng, làm che lấp các chỗ lồi lõm bình thường (mắt cá, nếp răn, đầu xương).
Màu da vùng đó nhợt nhạt.
Trong trường hợp kín đáo
Sự ứ nước có thể chưa nhiều để biểu hiện thành những triệu chứng lâm sàng rõ rệt, nhưng thường đủ để làm thay đổi cân nặng cuả người bệnh một cách nhanh chóng, cho nên những trường hợp kín đáo, cần phải cân người bệnh hằng ngày: tăng lên 1 -2,5kg trong vài ngày chỉ nó để giải thích được bằng hiện tượng phù.
Sau khi đã xác định được phù, muốn tìm nguyên nhân cần phải:
Nhận định kỹ tính chất phù.
Phát hiện các triệu chứng kèm theo.
Nhận định tính chất phù
Mức dộ (nhiều hay ít) và tiến triển hình (nhanh hay chậm): Tốt nhất nên theo dõi cân nặng để được chính xác và cụ thể.
Vị trí: Phù toàn thân hay khu trú một vùng và xuất hiện đầu tiên ở đâu?
Ấn lõm hay không?
Sự liên quan với thời gian (buổi sáng ngủ dậy thì không thấy phù, mà chỉ xuất hiện về chiều, phù do suy tim ở thời kỳ đầu) hoặc với tư thế người bệnh (phù xuất hiện khi đứng lâu) phù tim trong thời kỳ đầu, phù tĩnh mạch).
Tác dụng của chế độ ăn nhạt: thường khá rõ rệt trong phù do suy tim, do xơ gan và nhất là trong phù do viêm cầu thận cấp.
Phát hiện các triệu chứng kèm theo
Phản ứng mức độ nước:
Tình trạng các màng phổi màng bụng: Thường có tràn dịch trong các trường hợp phù to, nước dịch có thể trong hoặc hơi vàng chanh nhưng bao giờ cũng có ít protein và Rivalta (-) vì là dịch thấm.
Số lượng núơc tiểu thải tiết trong 24 giờ: nói chung tất cả các trường hợp phù (trừ phù do viêm tĩnh mạch và phù do bệnh bạch mạch) đều làm cho người bệnh đái ít. Mức độ giảm số lượng nước tiểu thường tỷ lệ với tình trạng phù, phù càng nhiều, người bệnh càng đái ít.
Chỉ điểm cho một cản trở cơ giới trên hệ tuần hoàn:
Tuần hoàn bàng hệ: Ở ngực (chỉ điểm cho một cản trở cơ giới ở hệ tỉnh mạch chủ trên, thường có trong hội chứng trung thất); ở hạ sườn phải và thượng vị (chỉ điểm cho một cản trở cơ giới ở hệ thống cửa chủ, thường có trong phù xơ gan): ở bẹn và hạ vị (chỉ điểm cho một cản trở cơ giới ở tĩnh mạch chủ dưới, thường có trong các trường hợp tắc hoặc chèn ép các tĩnh mạch chi dưới).
Xanh tím: Ở môi, ở mặt, chỉ điểm cho một cản trở cơ giới ở tĩnh mạch chủ trên hoặc tuần hoàn hoàn lớn, hoặc ở các chi tương ứng với tĩnh mạch có bệnh.
Gan to mềm, tĩnh mạch cổ nổi, phản hồi gan tĩnh mạch cổ (+): Chỉ điểm cho phù do suy tim phải.
Khó thở: Nhiều hoặc ít, thường có trong phù do suy tim.
Chỉ điểm cho một viêm nhiễm địa phương:
Tình trạng nóng, đỏ, đau ở vùng đó.
Sưng các hạch tương ứng với vùng đó.
Sốt nhiều hoặc ít.
Chẩn đoán xác định
Thường không khó khăn trong trường hợp rõ ràng và cả trong các trường hợp kín đáo: căn cứ vào các biểu hiện hoặc các biện pháp đãn nêu ở trên.
Những vấn đề chủ yếu và quan trọng trong chẩn đoán phù là tìm ra nguyên nhân.
Chúng tqa đều biết sự ứ nước trong các tổ chức gian bào dễ gây ra hiện tượng phù, thường xảy ra khi có các yếu tố.
Ứ trệ tuần hoàn
Suy tim.
Chèn ép tĩnh mạch hoặc tắc tĩnh mạch.
Hạ tỷ lệ protein ở huyết tương
Làm thay đổi áp lực thẩm thấu, nước dễ thoát ra ngoài huyết quản, như phù trong:
Thận nhiễm mỡ.
Thiếu dinh dưỡng.
Xơ gan.
Ứ NaCl
Ba yếu tố nói trên thường có thể kết hợp với nhau và đều là những yếu tố tiên phát. Nhưng dần dần, sau một thời gian, thường có thêm một yếu tố hậu phát, đó là:
Cường adosteron hậu phát
Ví dụ trong suy tim, thận nhiễm mỡ, xơ gan. Yếu tố này thường củng cố thêm hiện tượng phù, làm cho việc điều trị thêm khó khăn.
Ngoài 4 yếu tố nói trên, thường chi phối một số lớn các trường hợp phù, còn có trường hợp phù do:
Tổn thương các thành bạch mạch hoặc tĩnh mạch
Đấy là các trường hợp phù do:
Viêm tĩnh mạch.
Viêm hạch mạch.
Dị ứng.
Các biểu hiện phù trong nguyên nhân nói trên thường thể hiện dưới hai hình thái lâm sàng giúp cho ta huớng chẩn đoán nguyên nhân:
Phù toàn thân.
Phù khu trú từng vùng.
Chẩn đoán nguyên nhân
Phù toàn thân
Nghĩa là phù cả mặt, thân, chân tay và thường kèm thêm cả tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng bụng.
Nguyên nhân thông thường nhất là các bệnh thận, trong đó chủ yếu là:
Nhận nhiễm mỡ.
Viêm cầu thận (cấp, bán cấp, hoặc kính).
Tính chất chung của một phù thận là:
Bao giờ cũng xuất hiện đầu tiên của mi mắt, ở mặt, rồi mới đến các nơi khác.
Không có liên quan với thời gian trong ngày hoặc với tư thế người bệnh (dù sao nếu người bệnh phải nằm lâu, phù thường nhất ở vùng lưng, mặt sau đùi, tuy các vùng khác vẫn phù).
Phù trắng, mềm, ấn lõm.
Bao giờ ở nước tiểu cũng có protein; mức độ nhiếu ít có thễ khác nhau tuz theo loại bệnh thận.
Ngoài những tính chất chung đó của phù thận, bệnh nhân nhiễm mỡ và viêm cầu thận có một số yếu tố khác nhau về lâm sàng và cận lâm sàng, mà chúng tôi trình bày trong bảng dưới đây để căn cứ vào đó, chúng ta có thễ phát hiện được.
|
|
Thận nhiễm mỡ |
Viêm cầu thận |
|
- Mức độ phù. |
- Rất nhiều. |
- Nhiều hoặc ít. |
|
- Protein niệu. |
- Rất nhiều: 30 – 40g/l. |
- Nhiều hoặc ít (≤15g/l). |
|
- Ure máu. |
- Bình thường. |
- Tăng hoặc bình thường. |
|
- Thăm dò chức năng. |
- Bình thường. |
- Rối loạn. |
Ngoài nguyên nhân thông thường nhất nói trên, phù toàn thân còn có thể gặp trong:
Suy dinh dưỡng:
Chủ yếu phù chi dưới, nhưng cũng có khi phù cả mặt, thân và tay.
Cũng không có liên quan đến thời gian trong ngày hoặc với tư thế người bệnh.
Cũng mềm và ấn lõm.
Nhưng không bao giờ có protein ở nước tiểu, xác định bằng protein máu giảm, tỷ lệ serin/globulin giảm nhiều.
Phát hiện được bệnh tiên phát gây suy dinh dưỡng, thông thường nhất là các bệnh gây suy dinh dưỡng, thông thường nhất là các bệnh đường ruột mạn tính, các nhiễm khuẩn mạn tính (lao) hoặc các bệnh ác tính (ung thư, nhất là ung thư ống tiêu hoá).
Phù nội tiết:
Được đề cập đến những năm gần đây:
Phù có thể ở chi dưới và cả ở mặt, nhưng rất kín đáo: Người bệnh cảm thấy mặt hơi nặng và ấn hơi lõm, phải theo dõi cẩn thận mới biết chắc là phù.
Thường xảy ra ở phụ nữ và có liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt.
Phù khu trú
Phù ngực: Phù “áo khoác”, triệu chứng cổ điển của triệu chứng trung thất (xem bài hội chứng trung thất trong chương hô hấp).
Phù hai chi dưới: Nhiều bệnh có thể gây ra phù hai chi dưới.
Phù do suy tim phải:
Lúc đầu ít và kín đáo, chỉ có ở mắt cá chân; và chỉ xuất hiện về chiều, sau khi người bệnh đứnglâu, và mất đi lúc sáng sớm khi người bệnh ngủ dậy, về sau phù sẽ thường xuyên và rõ rệt.
Chế độ nghĩ ngơi, chế độ ăn nhạt có thể làm bớt phù.
Phù mềm, ấn lõm.
Bao giờ cũng kèm theo gan to, mềm, tức, có tính chất gan đàn xếp, tĩnh mạch cổ nổi hoặc phản hồi gan tĩnh mạch cổ (+) và khó thở ít hoặc nhiều.
Nếu suy tim phải kéo dài hoặc không hồi phục, có thể xuất hiện thêm cổ trướng thẩm thấu.
Xác định chẩn đoán bằng đo áp lực tĩnh mạch: rất cao.
Phù do xơ gan:
Mức độ có thể nhiều họăc ít, ấn lõm.
Ăn nhạt có thể bớt phù.
Thường kèm theo cổn trướng thẩm thấu và tuần hoàn bàng hệ cửa - chủ bằng soi ổ bụng và sinh thiết gan, nếu nghi ngờ.
Phù do suy dinh dưỡng (đã nói ở trên):
Phù do bệnh tê phù ướt (bêribêri):
Chủ yếu ở bắp chân, làm bắp chân người bệnh căng, to.
Có thể ấn lõm.
Không có liên quan với thời gian, với tư thế người bệnh cũng như với chế độ ăn nhạt.
Bao giờ cũng kèm theo rối loạn cảm giác chủ quan (tê bí, kiến bò, chuột rút) và mất phản xạ gân gối.
Phù thai nghén: Ở những sản phụ trong những tháng cuối của thời kỳ có thai.
Phù một chi
Thông thường nhất ở một chi dưới. Cần chú ý đến hai trường hợp:
Viêm tắc tĩnh mạch (phù tĩnh mạch):
Phù mềm, ấn không lõm, trắng nhưng rất đau: đau tự phát lâu ngày làm người bệnh không dám cử động chân, đau càng tăng lên khi sờ nắn chi, nhất là đoạn chi gần chỗ viêm tắc.
Nằm nghỉ và nhất là gác chân lên cao, sẽ làm giảm bớt phù.
Thường kèm theo sốt và mạch nhanh, nhưng không tương xứng vì sốt ít.
Viêm mạch bạch huyết:
Lúc đầu cũng giống như phù trong phù tỉnh mạch.
Mềm, ấn không lõm, trắng nhưng cũng rất đau nhưng không nổi rõ đường đi của mạch bạch huyết thành những đường đỏ, nóng và đau.
Các hạch bạch huyết tương ứng với các mạch đó sưng to và đau.
Về sau các tổn thương đã ổn định, các tổ chức dưới da và da trở nên rất dày và cứng: đấy là” phù chân voi”, di chứng của viêm bạch mạch.
Cần tìm nguyên nhân thông thường nhất ở nước ta là giun chỉ.
Phù do dị ứng: Thường xuất hiện đột ngột ở xung quanh mắt, mồm và thường mất đi rất nhanh.
Bài viết cùng chuyên mục
Lồng ngực lõm: tại sao và cơ chế hình thành
Ban đầu người ta cho rằng là do sự phát triển quá mức của sụn, nhưng những nghiên cứu gần đây đã nghi ngờ điều này. Vẫn chưa xác định được một khiếm khuyết gen đặc hiệu.
Tiếng gõ màng ngoài tim: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Dòng máu chảy bị chậm đột ngột vào tâm thất đầu thì tâm trương tạo ra tiếng động, xảy ra do tâm thất không giãn được vì bị màng ngoài tim co thắt chặn lại.
Giãn mao mạch: tại sao và cơ chế hình thành
Rất khó để đưa ra cơ chế riêng của từng loại giãn mao mạch trong cuốn sách này. Cơ chế chủ yếu do giãn mao mạch mãn tính. Ngoại lệ hội chứng giãn mao mạch xuất huyết di truyền là do có sự tổn thương thực sự của mạch máu.
Âm thổi tâm thu: âm thổi hở van hai lá
Đặc điểm của âm thổi hở van hai lá có ý nghĩa tương đối trong việc phát hiện hở van hai lá với độ nhạy là 56–75%, độ đặc hiệu 89–93% và LR 5.4. Tuy nhiên, nó không tương quan với độ nặng của hở van.
Hội chứng xuất huyết
Xuất huyết là một hội chứng bệnh lý gặp ở nhiều chuyên khoa như Xuất huyết dưới da hay gặp ở nội khoa, truyền nhiễm, xuất huyết dạ dày gặp ở khoa tiêu hoá; rong kinh.
Phì đại lưỡi: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Có vài nhận xét dựa trên bằng chứng về giá trị của phì đại lưỡi. Tuy nhiên, nếu nó xuất hiện, đó hầu như là bệnh lý và cần phải tìm hiểu nguyên nhân.
Chẩn đoán định khu hệ thần kinh
Từ các triệu chứng lâm sàng có thể xác định vị trí tổn thương của hệ thần kinh một cách chính xác, phép suy luận như vậy trong chuyên ngành thần kinh học được gọi là chẩn đoán định khu
Xét nghiệm dịch não tủy
Ở bệnh nhân xuất huyết trong nhu mô não và ở sát khoang dưới nhện hoặc sát não thất thì dịch não tủy cũng có thể lẫn máu, tuy nhiên lượng máu ít
Tổn thương phản xạ hướng tâm đồng tử (RAPD) (Đồng tử Marcus Gunn)
Tổn thương phản xạ hướng tâm đồng tử gây ra bởi tín hiệu vào tới nhân Edinger-Westphal không đối xứng do cấu trúc dải thị hướng tâm. Các rối loạn có tính đối xứng không gây ra phản xạ hướng tâm đồng tử.
Bạch sản trong bệnh lý huyết học: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Các yếu tố nguy cơ của bạch sản bao gồm hút thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá, nhiễm nấm candida, bệnh lí ung thư và tiền ung thư trước đó, virus HPV.
Triệu chứng cơ năng trong bệnh mạch máu
Tuỳ theo các nhân tố từ trong lòng động mạch hoặc từ bên ngoài tác động đến. Ví dụ nhân tố cơ giới (chấn thương thành mạch, tắc mạch), nhân tố tinh thần, lạnh, nóng, hoá chất.
Bàn chân Charcot: tại sao và cơ chế hình thành
Sự biểu hiện của chính triệu chứng là không đặc hiệu. Tuy nhiên, mới khởi phát đau, ở một bệnh nhân tiểu đường được biết đến với bệnh thần kinh là một chẩn đoán không thể bỏ qua.
Khám hệ vận động, tiền đình, tiểu não
Khám vận động bao gồm Nhận xét tư thế và vận động của bệnh nhân, khám sức cơ, khám trương lực cơ và nhận xét về các động tác không chủ ý
Dấu hiệu Trendelenburg: tại sao và cơ chế hình thành
Nếu rối loạn chức năng cơ hoặc dây thần kinh quá có thể làm co cơ không hiệu quả, để giữ được thăng bằng, chân đối diện phải trùng xuống hoặc nghiêng xuống dưới.
Chẩn đoán túi mật to
Để khám túi mật, dùng các phương pháp lâm sàng mà chủ yếu là sờ và trong những trường hợp cần thiết sử dụng phối hợp các phương pháp cận lâm sàng.
Viêm ngón: tại sao và cơ chế hình thành
Có thể đây là do sự xâm nhập của các yếu tố miễn dịch và cytokines liên quan đến các bệnh lý cột sống, giả thuyết khác cho rằng viêm điểm bám gân là tổn thương chính trong các bệnh lý cột sống và viêm bao khớp là do cytokines xâm nhập vào bao gân.
Hàm nhô trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Hầu như hàm nhô không bao giờ xảy ra đơn độc, vì thế giá trị chẩn đoán của nó khá hạn chế. Ngược lại, nếu không có những triệu chứng khác của bệnh to đầu chi, bất thường bẩm sinh là nguyên nhân chủ yếu.
Âm thổi tâm thu: âm thổi hở van ba lá (và dấu hiệu Carvello)
Có nhiều nguyên nhân có thể gây hở van ba lá. Thường gặp nhất là thứ phát do lớn thất phải và không phải do bệnh lý ngay tại van gây âm thổi hở van ba lá (và dấu hiệu Carvello).
Ho ra máu: triệu chứng cơ năng hô hấp
Hiện nay, phân loại mức độ nặng nhẹ của ho ra máu chưa thống nhất, trong thực tế, thường có 2 khả năng xảy ra đó là bệnh nhân đang ho, mới ho ra máu trong vài giờ hoặc đã ho ra máu trên 24 h
Ứ huyết trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Ứ huyết trong bệnh nội tiết xuất hiện trong 70% bệnh nhân có hội chứng Cushing, ứ huyết có độ đặc hiệu thấp, do đó cần nhiều đến nhiều nguyên nhân có thể xảy ra trên bệnh nhân.
Nghiệm pháp phalen: tại sao và cơ chế hình thành
Bất kể các nguyên nhân nào gây nên hội chứng ống cổ tay đều làm tăng áp lực trong đường hầm cổ tay. Khi cổ tay bị gấp, các dây chằng vòng hoạt động như một dòng dọc trượt lên các sợi gân, ép vào dây thần kinh giữa.
Hội chứng chảy máu
Người bệnh đến khoa sản vì rong kinh hay băng huyết, đến khoa tai mũi, họng vì chảy máu cam, đến khoa răng vì chảy máu chân răng
Khó thở khi đứng: nguyên nhân và cơ chế hình thành
Thông thường, nối tắt mạch máu từ hệ thống tĩnh mạch sang hệ thống động mạch gây nên khó thở ở tư thế đứng. Có nhiều cơ chế sinh lý cho điều này.
Mất khứu giác: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân
Mất khứu giác là một dấu hiệu quan trọng có liên quan đến thùy trán (ví dụ. u màng não) hoặc thoái háo thần kinh (ví dụ. bệnh Alzheimer), nhưng nguyên nhân thường gặp nhất là rối lọan trong mũi.
Dấu hiệu Lachman: tại sao và cơ chế hình thành
Nghiệm pháp Lachman thường được sử dụng với các thử nghiệm ngăn kéo trước để kiểm tra dây chằng chéo trước. Nó được cho là có độ nhạy cao hơn và thường được chấp nhận là một bài kiểm tra cấp cao của dây chằng.
