- Trang chủ
- Sách y học
- Các bài thuốc đông y hiệu nghiệm
- Thập táo thang
Thập táo thang
Đây là phương thuốc tiêu biểu về tuấn tả trục thủy. Lúc nghiền nhỏ nuốt có tác dụng tả hạ rất mạnh nhưng có tác dụng phản ứng buồn lợm, nôn mửa, nếu sắc thuốc bỏ bã.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thành phần
1. Cam toại.
2. Nguyên hoa.
3. Đại kích.
(Liều lượng bằng nhau).
4. Đại táo 10 quả.
Cách dùng
Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích tán nhỏ, mỗi lần dùng 2 gam - 4 gam, uống lúc sáng sớm chưa ăn uống gì, lấy 10 quả Đại táo sắc làm thang, bỏ vỏ bỏ hột, lấy nước uống. Hoặc chế thành hoàn, mồi lần 2 gam - 4 gam, uống lúc sáng sớm bụng đói. Sau khi đi tả cọ kịch liệt rồi thì ăn cháo để hòa vị dương khí.
Công dụng
Công trục thủy ẩm.
Chữa chứng bệnh
Bài này thời xưa dùng chữa các chứng “huyền ẩm”, phù thũng nước bụng chướng. Gọi là “huyền ẩm” tức là dưới nách có thủy khí, bị ho vòm ngực bị đau, dưới tim đầy cứng, nôn khan, đoản khí, đầu đau mắt mờ, lưỡi trơn, mạch huyền hoạt, gần đây thường dùng chữa các bệnh phù thũng nước nặng, nước ở ngực, nước ở bụng chướng đầy, không nằm thẳng được, hơi thở ngắn với những người thể chất còn tốt.
Giải bài thuốc
Đây là phương thuốc tiêu biểu về tuấn tả trục thủy. Lúc nghiền nhỏ nuốt có tác dụng tả hạ rất mạnh nhưng có tác dụng phản ứng buồn lợm, nôn mửa, nếu sắc thuốc bỏ bã, chỉ có tác dụng lợi tiểu tiện nhẹ mà không có tác dụng tả hạ trục thủy, tác dụng phản ứng cũng mất, cũng không có. Vì vậy trong “Thương hàn luận” dùng thuốc bột uống là có ý nghĩa riêng. Trong bài dùng cả Đại táo là để hòa vị dương khí để giảm bớt tác dụng phản ứng.
Tóm lại:
Bài này là phương thuốc tuấn công trục thủy, lúc dùng cần phải thận trọng, quan sát tỷ mỹ bệnh nhân xem so sánh lực lượng chính tà ra sao. Ví dụ thủy ở bụng sau khi gan bị xơ cứng, nói chung thuộc về dạng gốc hư tiêu thực, dùng bài thuốc này tuấn công trục thủy là cách giải quyết cấp thời “cấp tắc trị kỳ tiêu” mà không phải là phương pháp trừ tận gốc. Dùng Cam toại có thể gây nên nôn dữ dội, lúc dùng cần phải chú ý.
Phụ phương
Khống diên đan:
Cam toại, Đại kích, Bạch giới tử, liều lượng bằng nhau, tán nhỏ luyện với hồ làm hoàn. Mỗi lần dùng 1 gam đến 2 gam, sau khi ăn cơm đi nằm uống với nước gừng nhạt. Thường dùng chữa đờm dãi tích trệ ở phổi hoặc thủy ẩm ép phổi mà gây ra ho không nằm thẳng được, hoặc người bệnh mặt, tứ chi thũng, ở hiệu thuốc có bán chế sẵn.
Đan xa hoàn:
Hắc sửu nghiền nhỏ 4 lạng, Cam toại (nướng vỏ ngoài), Nguyên hoa, Đại kích (sao giấm) đều 1 lạng, Đại hoàng 20 gam, Thanh bì, Trần bì, Mộc hương, Binh lang đều 5 gam, Khinh phấn 4 gam, tất cả nghiền nhỏ hòa với nước làm hoàn, mỗi lần dùng chừng 4 gam, sáng sớm bụng rỗng uống với nước ấm. Bài này ngoài tác dụng tả hạ ra, còn có tác dụng lợi tiểu tiện rất mạnh, thường dùng chữa bệnh phù thũng nước. ở hiệu thuốc có bán thuốc chế sẵn.
Bài viết cùng chuyên mục
Tê giác địa hoàng thang
Bài này là bài thuốc tiêu biểu về lương huyết giải độc, nhiều bài thuốc khác nhằm thanh dinh, lương huyết, giải độc, cũng từ bài này mà biến hóa đi. Tê giác thanh tâm, lương huyết, giải độc.
Lý trung hoàn (ôn)
Bài này dùng Bào khương khử hàn, Bạch truật kiện tỳ, Nhân sâm bổ khí, Cam thảo hòa trung và còn giúp sâm, truật kiện tỳ bổ khí.
Ô mai hoàn
Hồi quyết, trung quản và bụng đau dữ dội, tâm hạ cảm nhiệt lợ lợm lòng ẩu thổ, hoặc nôn ra giun, tay chân giá lạnh, ra mồ hôi lạnh, mạch phục hoặc huyền khẩn.
Tang hạnh thang
Sa sâm, vỏ lê nhuận phế sinh tân, phối ngũ thành phương thanh táo nhuận phế. Táo nhiệt trừ, tân dịch phế phục hồi, thì ho khan phải dứt.
Ô đầu thang
Phương này dùng Ô đầu ôn dương làm chủ dược phụ với Ma hoàng tán hàn giảm đau có hiệu quả, dùng chữa các chứng tý thiên về hàn. Nhưng khi dùng các vị Xuyên ô, Thảo ô, Phụ tử để trị thống tý thường phải dùng thuốc bổ khí dưỡng huyết làm phụ trợ.
Đại sài hồ thang
Bài này là Tiểu sài hồ thang bỏ Nhân sâm, Cam thảo gia Đại hoàng, Chỉ thực, Thược dược mà thành, kết hợp giữa hòa giải và hoãn hạ, có tác dụng sơ giải, hòa lý, tiết nhiệt, tiêu đạo.
Tang chi hổ trượng thang
Phương này là nghiệm phương ở Thượng Hải hay dùng chữa phong thấp. Bốn vị đầu có công năng khư phong thấp, thông kinh lạc. Dùng lượng nhiều là để giảm đau ngay, kim tước căn có công hiệu cường tráng.
Cửu tiên tán
Phương này dùng Nhân sâm bổ phế khí, A giao dưỡng phế âm, phụ trợ có Tang bạch bì, Khoản đông hoa tư phế; Ngũ vị tử, Ô mai, Anh túc xác liễm phế.
Tứ thần hoàn
Phép chữa chú ý vào chữa thận, cho nên phương này trọng dụng Bổ cốt chỉ để ôn bổ thận dương làm chủ dược; phụ trợ có các vị, Ngô thù du ôn trung tán hàn.
Đại hoàng cầm thảo thang
Bài này gia Mang tiêu thì gọi là Điều vị thừa khí thang, bỏ Cam thảo gia Chỉ thực, Hậu phác gọi là Tiểu thừa khí thũng, bỏ Cam thảo gia Mang tiêu.
Phúc nguyên hoạt huyết thang
Phương này là thuốc uống thường dùng trong khoa chấn thương, chủ trị huyết ứ đình trệ gây các chứng ngực sườn đau tức
Đạo đàm thang
Nhị trần gia Chỉ thực hạ khí giáng nghịch, Nam tinh sưu phong khứ đàm, nên dẫn được đàm xuống, để trị phong đàm Thượng nghịch.
Thanh cốt tán
Bài này tuy gồm các vị hàn lương nhưng không phải là thuốc đại khổ, đại hàn là bài thuốc tiêu biểu chữa thanh hư nhiệt, nhiệt đốt trong xương mà gây sốt theo cơn.
Thanh cao miết giáp thang
Bài này là bài thuốc tiêu biểu về dưỡng âm thanh nhiệt thích hợp với người bệnh âm huyết không đủ mà lại bị sốt cơn, nó khác với bài Thanh cốt tán chuyên thanh cốt chưng đốt.
Cam toại thông kết thang
Tính chất bài thuốc có thể chia làm 3 bộ phận: Hoạt huyết, hành khí, công hạ. Đào nhân, Xích thược, Ngưu tất dùng để hoạt huyết khử ứ.
Tịch ôn thang
Chủ trị trúng thử phát sa, lợm lòng, đau bụng thổ tả, hoặc muốn nôn không nôn được, muốn ỉa không ỉa được, tâm phiền tứ chi giá lạnh.
Tuyết cánh thang
Hải triết, Bột tể nhuận hoạt hàn lương để hóa đàm nhuyễn kiên, tán kết, thanh hỏa. Hai vị này tuy rất là đạm bạc.
Tứ sinh hoàn
Tiên sinh địa lương huyết, dưỡng âm, giúp Trắc bá, Hà diệp thu liễm chỉ huyết. Ba vị này đều có tính hàn lương, đem phối ngũ với Ngải diệp.
Sinh mạch tán
Bài này dùng Nhân sâm bổ ích nguyên khí, Mạch môn dưỡng âm, Ngũ vị thu liễm phế khí bị hao tán và liễm âm chỉ hãn.
Giao thái hoàn
Chủ trị mất ngủ, khi đi nằm tinh thần hưng phấn tâm hồi hộp không yên, không nằm được. Ban ngày đầu hôm (như mê) hay buồn ngủ.
Thân thống trục ứ thang
Phương này dùng Đào hồng Đương quy hoạt huyết hóa ứ. Ngũ linh chi, Địa long, khứ ứ thông lạc, Xuyên khung, Một dược hoạt huyết giảm đau; Khương hoạt, Tần giao trừ phong thấp của toàn thân; Hương phụ lý khí chỉ thống,.
Kim phất thảo tán
Kim phất thảo ôn tán, hóa đàm, giáng khí là chủ dược, phụ với Tiền hồ tuyên hạ phế khí. Kinh giới, Tế tân, Sinh khương phát tán phong hàn.
Hoàng long thang
Bài này là Đại thừa khí thang gia thêm các vị thuốc ích khí (Nhân sâm), dưỡng huyết (Đương quy) tạo thành. Các vị thương táo trong bài thuốc là để hòa vị điều trung.
Bát chính tán
Mộc thông, Xa tiền, Cồ mạch, Biển súc, Hoạt thạch, Cam thảo là các vị thuốc lợi thủy, làm chủ dược của phương, đồng thời chúng cũng có tác dụng thanh nhiệt.
Ước tý thang
Chủ trị phong hàn thấp tý, tay chân, mình, khớp xương đau nhức hoặc tê nặng, gặp nóng thì giảm đau, gặp ngày mưa ngày rét thì nặng, có phù cục bộ và phát nhiệt.
