- Trang chủ
- Sách y học
- Các bài thuốc đông y hiệu nghiệm
- Ô mai hoàn
Ô mai hoàn
Hồi quyết, trung quản và bụng đau dữ dội, tâm hạ cảm nhiệt lợ lợm lòng ẩu thổ, hoặc nôn ra giun, tay chân giá lạnh, ra mồ hôi lạnh, mạch phục hoặc huyền khẩn.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thành phần
1. Ô mai nhục 360 gam.
2. Hoàng liên 640 gam.
3. Hoàng bá 240 gam.
4. Nhân sâm (hoặc Đẳng sâm) 240 gam.
5. Đương quy 160 gam.
6. Chế Phụ tử 160 gam.
7. Quế chi 160 gam.
8. Sao xuyên tiêu 160 gam.
9. Can khương 400 gam.
10. Tế tân 240 gam.
Cách dùng
Ô mai nhục dùng giấm 50% tẩm 1 ngày rồi hợp với các loại thuốc trên sấy khô, nghiền thành bột, rồi chế với mật thành viên. Mỗi lần uống 12 gam thuốc viên, ngày dùng 1-3 lần vào lúc đói. Có thể dùng liều thích hợp làm thành thang gọi là Ô mai thang.
Công dụng
An hồi, chỉ thống.
Chủ trị
Hồi quyết (chứng giun chui ống mật), trung quản và bụng đau dữ dội, tâm hạ cảm nhiệt lợ lợm lòng ẩu thổ, hoặc nôn ra giun, tay chân giá lạnh, ra mồ hôi lạnh, mạch phục hoặc huyền khẩn. Cơn đau ngừng thì lại như người thường.
Giải bài thuốc
Bản phương lấy Ô mai, Hoàng liên, Xuyên tiêu làm chủ dược. Theo kinh nghiệm của người xưa thì hồi trùng (giun đũa) gặp chất chua thì ngừng quấy, gặp chất đắng thì được yên, gặp chất cay thì quay đầu xuống dưới (đắc toan tắc chỉ, đắc khổ tắc an, đắc tân tắc phục vu hạ). Cho nên mới dùng Ô mai, Hoàng liên, Xuyên tiêu. Ba vị này là cực toan, cực khổ, và cực tân để làm cơ sở lập phương. Nhưng chứng giun chui ống mật sở dĩ phát ra được, cổ nhân cho là do nội tạng hư hàn, nên giun quấy không yên, ở trên xâm phạm cách mô mà gây đau, gây nôn, gây phiền và gây lạnh, lại thêm hàn nhiệt xen kẽ nữa. Trên lâm sàng người ta đã soi thấy giun chui vào đường dẫn mật. Nhưng đấy, chỉ là đơn thuần hình hóa. Thực ra thì những biểu hiện cơ bản đã sớm báo hiệu rồi. Vì vậy nên phương này còn dùng Tế tân, Quế chi, Can khương, Phụ tử để giúp thêm cho Xuyên tiêu trị tạng hàn, Hoàng bá giúp Hoàng liên thanh thấp nhiệt, Nhân sâm, Đương quy bổ hư. Hàn ôn cùng dùng, tiêu bản cùng chữa: Không những an dược giun mà còn an được vị, dùng chữa chứng.hồi quyết nói trên công hiệu thần kỳ.
Phương này còn chữa được chứng đau dạ dày và chứng lỵ lâu ngày. Cho nên có tên là Ô-mai an hồi hoàn, lại có tên Ô mai an vị hoàn.
Gia giảm
Nếu dùng thuốc thang có thể gia giảm: Nhiệt nhiều nên bỏ Phụ tử, hàn nhiều nên bỏ Hoàng bá. Miệng đắng, tâm hạ đau, nóng quá, tăng thêm Ô mai, Hoàng liên, đau xuyên ngực sườn gia Sài hồ, Bạch thược, đại tiện bất thông gia Binh lang, Đại hoàng, có thức ăn tích trệ gia Thái phục tử, kiêm khí trệ gia Mộc hương Chỉ xác.
Phụ phương:
Cam thảo phấn mật thang:
Dùng Cam thảo 12-20 gam sắc với nước làm thang rồi cho một lượng bột gạo tẻ, một lượng mật thích hợp tiếp tục chưng lên thành dạng cháo loãng. Uống lúc nóng.
Nguyên phương này để trị bệnh do giun đũa (hồi trùng) gây thổ nước dãi, ngực bang đau bệnh phát từng lúc, đã dùng các thuốc tẩy giun khác không ra giun mà đau lại không dứt.
Gần đây người ta dùng Đại hoàng phấn (bột Đại hoàng) hòa với mật hợp thành tễ để chữa chứng trẻ em (từ 3-7 tuổi) bị chứng ruột rắn tắc do giun đũa gây ra. Có chứng đau bụng hướng xuống, nôn ra nước hoặc ra giun, bụng chướng, đại tiện bí, bụng có hình khối (búi giun), đã dùng thuốc tẩy giun mà không ra, đau lại không dứt, nhất định có hiệu quả. Phương này dùng bột Đại hoàng sống 20 gam, bột gạo tẻ (sao thơm không cháy) 12 gam hòa với 30 gam mật ong, cho uống với nước sôi lượng vừa phải. Mỗi tễ thuốc trên dùng được 12 lần mới hết. Mỗi lần dùng hòa thuốc với 1 thìa nước. Giun đũa cứ từ từ mà ra. Nếu dùng hết tễ thuốc ấy mà không ra giun, có thể dùng tễ nữa. Phương này là biến phương của Cam thảo phấn mật thang. Chúng ta nên cùng tham khảo.
Bài viết cùng chuyên mục
Lục nhất tán
Phương này có 6 phần Hoạt thạch, một phần Cam thảo, nên tên gọi lục nhất. Hoạt thạch vị đạm tính hàn, đạm năng thảm thấp, hàn năng tiêu nhiệt, giải thử.
Lương cách tán
Bài này là phương thuốc tiêu biểu chữa uất nhiệt ở Thượng tiêu, trung tiêu táo thực. Bài thuốc dùng Liên kiều, Chỉ tử.
Đại hoàng mẫu đơn thang
Chứng Trường ung, theo y học của Tổ quốc cho rằng do nhiệt độc ủng kết trong ruột, huyết ứ không tán mà thành bệnh. Bản phương dùng Đại hoàng thanh nhiệt giải độc, tả hỏa.
Tam nhân thang
Phương này trị thấp nhiệt ở khí phận sốt âm không hư, hoặc sốt cơn sau ngọ, bệnh nhân sáng nhẹ chiều nặng dùng phương này rất có hiệu quả.
Lương phu hoàn
Cao lương khương ôn vị, tán hàn tà, Hương phụ 1ý khí, giải uất. Hai vị này ôn trung tán hàn hành khí, khí hành tắc vị hòa, hàn tán thì thôi đau.
Việt cúc hoàn
Hương phụ tính thơm lý khí, là thuốc chữa khí trong huyết, Xuyên khung trợ tá tăng thêm sức hoạt huyết hành khí.
Trúc diệp thạch cao thang
Khi vị khí, vị âm không đủ mà chứng vị nhiệt không biểu hiện rõ (như miệng hôi, lưỡi nứt) có thể bỏ Thạch cao, lưỡi sáng bóng như gương, có thể thêm Thanh học tươi, Thiên hoa phấn để sinh tân tăng dịch.
Bài xung cổ thang
Tính chất bài thuốc bình hòa, trong khi chữa thường ghép các vị giải biểu khác và các vị tuyên phế hóa thấp, dùng chữa bệnh ngoại cảm nhiệt ban đầu.
Quế chi thược dược tri mẫu thang
Toàn phương dùng chữa phong hàn thấp tý nhưng phát táo (bệnh tiến triển) có triệu chứng nhiệt do uất sinh. Quế chi ôn thông huyết mạch, Ma hoàng, Phòng phong, Phụ tử, Bạch truật để khư phong, tán hàn, trừ thấp; Tri mẫu thanh nhiệt.
Bổ trung ích khí thang
Bài này là phương thuốc tiêu biểu về thăng dương (thăng đề) ích khí. Hoàng kỳ, Nhân sâm là vị thuốc chủ yếu dùng để cam ôn ích khí.
Độc sâm thang
Nhân sâm đại bổ nguyên khí, dùng riêng thì lực chuyên nên bài này chuyên dùng để ích khí cố thoát, người ra nhiều huyết thoát phải ích khí trước.
Thanh vi tán
Bản phương dùng Sinh địa, Đan bì lương huyết giải nhiệt, Hoàng liên thăng mà thanh nhiệt giải độc, Đương quy hòa huyết dưỡng huyết.
Tứ sinh hoàn
Tiên sinh địa lương huyết, dưỡng âm, giúp Trắc bá, Hà diệp thu liễm chỉ huyết. Ba vị này đều có tính hàn lương, đem phối ngũ với Ngải diệp.
Chỉ truật hoàn
Bài này dùng Bạch truật kiện tỳ, Chỉ thực tiêu đầy chướng nhưng liều lượng Bạch truật gấp đôi Chỉ thực.
Phế lao nghiệm phương
Đan sâm hoạt huyết, khử ứ, cải thiện sự tuần hoàn máu, dùng để phù chính. Hoàng cầm thanh phế nhiệt, Bách bộ nhuận phế, chỉ khái là thuốc trị ho lao.
Đào hồng tứ vật thang
Phương này là Tứ vật thang gia Hồng hoa, Đào nhân. Tứ vật thang dưỡng huyết, hoạt huyết phối ngũ với Đào hồng để phá ứ.
Thập khôi hoàn
Đây là phương thường dùng để cầm máu. Mười vị thuốc trong phương đều có tác dụng lương huyết chỉ huyết.
Vị kinh thang
Đây là phương thuốc cổ đại trị bệnh phế ung (abces du poumon), nhưng sức thanh nhiệt giải độc e rằng còn thiếu. Nếu chỉ dùng bài này mà chữa, hiệu quả không cao.
Ngũ bình tán
Phương này tính vị bình hòa, là thuốc thông dụng để lợi thủy tiêu thũng. Các vị hợp thành đều có tác dụng lợi thủy, cũng đều có tác dụng hành khí.
Thông quan tán
Bản phương dùng Tạo giáp khư đàm, Tế tân thông khiếu, dùng ngoài kích thích lỗ mũi. Nhưng đối với chứng trúng phong (não huyết quản) chấn thương sọ não ra hôn quyết, cấm được dùng phương này.
Thiên chủy cao (Nghiệm phương)
Trước hết lấy Tỳ ma tử nhục cho vào cối giã nát, rồi cho dần dần bột Tùng hương vào đánh cho thật đều, xong cho dần dần bột Khinh phấn, Đông đan, Ngân chu. Sau cùng, mới cho dầu trà (trà du) vào đảo giả độ nghìn chày F(1) luyện thành thuốc cao
Đại hàm hùng thắng
Bài này dùng Đại hoàng, Mang tiêu, Cam toại đều là những vị thuốc tả hạ tương đối mạnh nên gọi là phương thuốc tuấn tả trục thủy.
Thực tỳ ẩm
Phương này, thuốc hành khí, ôn hàn có nhiều, nhưng thuốc phù chính bổ khí chưa đủ. Tác dụng chủ yếu để chữa hàn thấp tà, thủy thũng bụng nề, hàn thịnh khí trệ. Vì hàn thấp tà khí hay hao tổn tỳ dương vì thế khử tà tức là phù chính.
Thanh đại tán (Khẩu cam dược)
Trước hết rửa sạch khoang miệng, cho thuốc bột trên vào, thổi vào chỗ có bệnh, mỗi ngày 2-3 lần. Nếu thuốc có vào yết hầu, có thể nuốt được.
Long đởn tả can thang
Đây là bài thuốc tiêu biểu về tả thực hỏa ở can và đởm. Long đởm thảo là vị thuốc khổ hàn tiết nhiệt chuyên dùng tả thực hỏa ở can đởm.
