Ô mai hoàn

2013-04-23 11:02 AM

Hồi quyết, trung quản và bụng đau dữ dội, tâm hạ cảm nhiệt lợ lợm lòng ẩu thổ, hoặc nôn ra giun, tay chân giá lạnh, ra mồ hôi lạnh, mạch phục hoặc huyền khẩn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thành phần

1.  Ô mai nhục                                  360 gam.

2.  Hoàng liên                                   640 gam.

3.  Hoàng bá                                     240 gam.

4.  Nhân sâm (hoặc Đẳng sâm)    240 gam.

5.  Đương quy                                  160 gam.

6.  Chế Phụ tử                                  160 gam.

7.  Quế chi                                         160 gam.

8.  Sao xuyên tiêu                            160 gam.

9.  Can khương                               400 gam.

10. Tế tân                                          240 gam.

Cách dùng

Ô mai nhục dùng giấm 50% tẩm 1 ngày rồi hợp với các loại thuốc trên sấy khô, nghiền thành bột, rồi chế với mật thành viên. Mỗi lần uống 12 gam thuốc viên, ngày dùng 1-3 lần vào lúc đói. Có thể dùng liều thích hợp làm thành thang gọi là Ô mai thang.

Công dụng

An hồi, chỉ thống.

Chủ trị

Hồi quyết (chứng giun chui ống mật), trung quản và bụng đau dữ dội, tâm hạ cảm nhiệt lợ lợm lòng ẩu thổ, hoặc nôn ra giun, tay chân giá lạnh, ra mồ hôi lạnh, mạch phục hoặc huyền khẩn. Cơn đau ngừng thì lại như người thường.

Giải bài thuốc

Bản phương lấy Ô mai, Hoàng liên, Xuyên tiêu làm chủ dược. Theo kinh nghiệm của người xưa thì hồi trùng (giun đũa) gặp chất chua thì ngừng quấy, gặp chất đắng thì được yên, gặp chất cay thì quay đầu xuống dưới (đắc toan tắc chỉ, đắc khổ tắc an, đắc tân tắc phục vu hạ). Cho nên mới dùng Ô mai, Hoàng liên, Xuyên tiêu. Ba vị này là cực toan, cực khổ, và cực tân để làm cơ sở lập phương. Nhưng chứng giun chui ống mật sở dĩ phát ra được, cổ nhân cho là do nội tạng hư hàn, nên giun quấy không yên, ở trên xâm phạm cách mô mà gây đau, gây nôn, gây phiền và gây lạnh, lại thêm hàn nhiệt xen kẽ nữa. Trên lâm sàng người ta đã soi thấy giun chui vào đường dẫn mật. Nhưng đấy, chỉ là đơn thuần hình hóa. Thực ra thì những biểu hiện cơ bản đã sớm báo hiệu rồi. Vì vậy nên phương này còn dùng Tế tân, Quế chi, Can khương, Phụ tử để giúp thêm cho Xuyên tiêu trị tạng hàn, Hoàng bá giúp Hoàng liên thanh thấp nhiệt, Nhân sâm, Đương quy bổ hư. Hàn ôn cùng dùng, tiêu bản cùng chữa: Không những an dược giun mà còn an được vị, dùng chữa chứng.hồi quyết nói trên công hiệu thần kỳ.

Phương này còn chữa được chứng đau dạ dày và chứng lỵ lâu ngày. Cho nên có tên là Ô-mai an hồi hoàn, lại có tên Ô mai an vị hoàn.

Gia giảm

Nếu dùng thuốc thang có thể gia giảm: Nhiệt nhiều nên bỏ Phụ tử, hàn nhiều nên bỏ Hoàng bá. Miệng đắng, tâm hạ đau, nóng quá, tăng thêm Ô mai, Hoàng liên, đau xuyên ngực sườn gia Sài hồ, Bạch thược, đại tiện bất thông gia Binh lang, Đại hoàng, có thức ăn tích trệ gia Thái phục tử, kiêm khí trệ gia Mộc hương Chỉ xác.

Phụ phương:

Cam thảo phấn mật thang:

Dùng Cam thảo 12-20 gam sắc với nước làm thang rồi cho một lượng bột gạo tẻ, một lượng mật thích hợp tiếp tục chưng lên thành dạng cháo loãng. Uống lúc nóng.

Nguyên phương này để trị bệnh do giun đũa (hồi trùng) gây thổ nước dãi, ngực bang đau bệnh phát từng lúc, đã dùng các thuốc tẩy giun khác không ra giun mà đau lại không dứt.

Gần đây người ta dùng Đại hoàng phấn (bột Đại hoàng) hòa với mật hợp thành tễ để chữa chứng trẻ em (từ 3-7 tuổi) bị chứng ruột rắn tắc do giun đũa gây ra. Có chứng đau bụng hướng xuống, nôn ra nước hoặc ra giun, bụng chướng, đại tiện bí, bụng có hình khối (búi giun), đã dùng thuốc tẩy giun mà không ra, đau lại không dứt, nhất định có hiệu quả. Phương này dùng bột Đại hoàng sống 20 gam, bột gạo tẻ (sao thơm không cháy) 12 gam hòa với 30 gam mật ong, cho uống với nước sôi lượng vừa phải. Mỗi tễ thuốc trên dùng được 12 lần mới hết. Mỗi lần dùng hòa thuốc với 1 thìa nước. Giun đũa cứ từ từ mà ra. Nếu dùng hết tễ thuốc ấy mà không ra giun, có thể dùng tễ nữa. Phương này là biến phương của Cam thảo phấn mật thang. Chúng ta nên cùng tham khảo.

Bài viết cùng chuyên mục

Gia giảm biến hóa bài thuốc đông y

Nếu định lượng vị thuốc trong bài thuốc biến đổi lớn thì tác dụng chính cũng biến đổi theo. Ví như bài Chỉ truật thang và Chỉ truật hoàn cùng gồm 2 vị Chỉ thực và Bạch truật ghép nên.

Tam cao thang

Ma hoàng tân ôn phát tán, tuyên phế bình suyễn là chủ dược. Hạnh nhân giáng khí, nhuận phế, chỉ khái, giúp Ma hoàng bình suyễn.

Đại bán hạ thang

Bụng ngực đầy chướng, đại tiện bí có thể gia Chỉ thực, Hậu phác, Binh lang để tăng thêm tác dụng khoan trung lý khí, đạo trệ, phát kết.

Tang cúc ẩm

Trong thuốc thanh nhiệt chỉ dùng Liên kiều mà chưa dùng Ngân hoa thì tác dụng thanh nhiệt cũng yếu; về thuốc thông phế ghép.

Ngô thù du thang

Chữa chứng bệnh Vị khí hư hàn, can vị bất hòa, nôn khan, nôn ra dãi hoặc nước chua, bụng hông đầy đau, hoặc đau đầu, lưỡi không hồng, không nhiệt.

Hành quân tán

Phương này có đặc điểm là dùng nhiều thuốc tân hương tịch uế giải độc. Cho nên trị được khí độc (sa khí) giảm đau bụng, thổ tả, trừ phiền táo, thuộc về tễ ôn khai.

Thông quan tán

Bản phương dùng Tạo giáp khư đàm, Tế tân thông khiếu, dùng ngoài kích thích lỗ mũi. Nhưng đối với chứng trúng phong (não huyết quản) chấn thương sọ não ra hôn quyết, cấm được dùng phương này.

Thương nhĩ tử tán

Thương nhĩ thông tỵ khiếu, tán phong, chỉ thống, Bạc hà tiêu tán phong nhiệt, trị đầu thống, đầu phong.

Hòe hoa tán

Hòe hoa thanh đại tràng thấp nhiệt là vị thuốc chủ yếu trị đại tiện ra máu. Thêm 2 vị Trắc bá, Kinh giới đều có tác dụng cầm máu (Kinh giới phải sao đen).

Thiếu phúc trục ứ thang

Phương này lấy bài Thất tiếu tán (Bồ hoàng, Ngũ linh chi) phối ngũ với Khung, Quy làm chủ yếu, lại gia Huyền hồ.

Kim quỹ thận khí hoàn

Bài này dùng phụ, quế làm thuốc chủ là phương thuốc bổ thận được ứng dụng sớm nhất. Lục vị địa hoàng hoàn và các loại Địa hoàng hoàn khác đều từ bài thuốc này biến hóa ra.

Hải tảo ngọc hồ thang

Hải tảo, Hải tai, Côn bố theo dược lý ngày nay phân tích, hàm chứa nhiều chất can xi, có tác dụng tiêu tan u bướu, là thuốc chủ của bài thuốc này.

Thiên chủy cao (Nghiệm phương)

Trước hết lấy Tỳ ma tử nhục cho vào cối giã nát, rồi cho dần dần bột Tùng hương vào đánh cho thật đều, xong cho dần dần bột Khinh phấn, Đông đan, Ngân chu. Sau cùng, mới cho dầu trà (trà du) vào đảo giả độ nghìn chày F(1) luyện thành thuốc cao

Thanh dinh thang

Bài này từ Tê giác địa hoàng thang biến hóa ra. Tê giác, Sinh địa là thuốc chủ của bài thuốc, ghép thêm Ngân hoa, Liên kiều để thanh nhiệt giải độc.

Ngân kiều tán

Bài thuốc này rất hay dùng khi chữa bệnh là một bài tiêu biểu về tân lương giải biểu. Dùng Đậu cổ, Ngưu bàng tử, Kinh giới.

Ma hoàng thang

Ma hoàng tân ôn phát biểu, tuyên phế, bình suyễn là chủ dược, phối với Quế chi ôn kinh tán hàn giúp Ma hoàng phát biểu.

Hà nhân ẩm

Đây là thuốc đại bổ khí huyết, Hà thủ ô bổ can thận, âm huyết, dưỡng âm mà không gây thấp, làm chủ dược. (Sốt rét lâu ngày tất phải dùng Hà thủ ô mới cắt được sốt rét. So với các vị bổ dược khác, có khác nhau, còn đang được nghiên cứu).

Cánh hạ trục ứ thang

Bản phương dùng Đương quy, Xuyên khung, Đào hồng, Đan bì, Xích thược để hoạt huyết, dùng Ngũ linh chi, Diên hồ sách (Huyền hồ) để hóa ứ.

Tứ sinh hoàn

Tiên sinh địa lương huyết, dưỡng âm, giúp Trắc bá, Hà diệp thu liễm chỉ huyết. Ba vị này đều có tính hàn lương, đem phối ngũ với Ngải diệp.

Từ chu hoàn

Bản phương dùng Từ thạch, Chu sa để nhiếp nạp phù dương, trấn tâm an thần, minh mục (làm sáng mắt); Lục khúc trợ tiêu hóa làm cho hai vị thuốc đan thạch trên không làm hại vị khí mà còn làm lợi sức vận hành của thuốc ấy.

Phòng kỷ hoàng kỳ thang

Lâm sàng thường dùng phương này chữa bệnh thận viên mạn tính, có phù, nên gia thêm Ngũ linh tán hoặc Ngũ bì ẩm hợp dụng. Khí hư nhiều nên gia đảng hoặc nhân sâm.

Tứ nghịch tán

Thương hàn luận dùng bài thuốc này chữa nhiệt tà truyền vào trong, dương khí uất không phát ra ngoài mà hình thành tứ chi liễm lạnh gọi là “liễm nhiệt”.

Độc hoạt ký sinh thang

Tam tý thang: Tức là bản phương bỏ Ký sinh, gia Hoàng kỳ, Tục đoạn, tức là lấy bài Thập toàn đại bổ làm cơ sở và gia thuốc bổ can thận, khư phong thấp mà hợp thành. Cách trị cũng như phương trên, nhưng có Hoàng kỳ thì tác dụng bổ hư càng mạnh.

Hoàng thổ thang

Phương này tiêu biểu cho các tễ ôn dược chỉ huyết. Đất lòng bếp ôn trung hòa vị, sáp tràng cố hạ, có tác dụng chỉ thổ, chỉ tả, và chỉ huyết. Gọi là tam chỉ chủ dược.

Đạo khí thang

Còn cho rằng phần lớn chứng đau bụng hơi, trước tiên là thấp nhiệt lưu ở kinh mạch của gan, mắc lại cảm ngoại hàn, hàn nhiệt xen kẽ nhau.