- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh
Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh
Đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau, một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan và hệ thống kiểm soát chưa được thích nghi.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Một đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau. Tính không ổn định này một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan khác nhau và một phần từ thực tế rằng hệ thống kiểm soát đơn giản chưa được thích nghi với cuộc sống mới.
Hệ hô hấp
Tỉ lệ hô hấp bình thường ở trẻ sơ sinh là khoảng 40 nhịp/phút, và khí lưu thông mỗi nhịp thở trung bình là 16ml, kết quả là thể tích hô hấp mỗi phút là 640ml/phút-gấp đôi người lớn so với trọng lượng của cơ thể. Dung tích cặn chức năng của phổi trẻ sơ sinh chỉ bằng một nửa so với người lớn trong mối liên quan với trọng lượng cơ thể. Sự khác nhau này gây ra nồng độ khí máu của trẻ sơ sinh tăng và giảm quá mức nếu như tần số thở là chậm, bởi vì khí cặn trong phổi tạo điều kiện thay đổi khí máu.
Tuần hoàn
Thể tích máu
Thể tích máu của trẻ sơ sinh ngay sau khi sinh trung bình khoảng 300ml, nhưng nếu đứa trẻ vẫn còn được gắn với nhau thai một vài phút sau sinh hoặc dây rốn được kẹp để cho phép máu chảy qua mạch máu vào đứa bé, cung cấp thêm cho đứa trẻ 75ml máu vào cơ thể, để có tổng cộng là 375 ml. Sau đó, trong suốt vài giờ sau đó, dịch đi vào các khoảng mô từ lượng máu này, chúng làm tăng hematocrit nhưng thể tích máu lại quay trở về giá trị bình thường khoảng 300ml. Trên một số trẻ người ta cho rằng lượng máu bổ sung này từ việc kẹp dây rốn có thể dẫn đến phù phổi nhẹ với một số mức độ suy hô hấp, nhưng bổ sung lượng hồng cầu này thường có giá trị với trẻ sơ sinh.
Hiệu suất của tim
Hiệu suất tim của trẻ sơ sinh trung bình khoảng 500ml/phút, chúng giống như hô hấp và chuyển hóa của cơ thể, khoảng nhiều gấp 2 lần người lớn so với trọng lượng cơ thể. Thỉnh thoảng một đứa trẻ sinh ra với một hiệu suất tim đặc biệt thấp gây ra bởi xuất huyết nhiều thể tích máu từ nhau thai lúc sinh.
Huyết áp động mạch
Huyết áp động mạch trong ngày đầu sau sinh trung bình huyết áp tâm thu khoảng 70mmHg và huyết áp tâm trương khoảng 50mmHg và tăng chậm trong vài tháng tiếp theo đến khoảng 90/60 mmHg. Tăng chậm hơn nhiều xuất hiện sau những năm tiếp theo cho đến tuổi dậy thì bằng huyết áp người lớn 115/70 mmHg.
Đặc trưng của máu
Số lượng hồng cầu ở trẻ sơ sinh trung bình khoảng 4 triệu/mm3. Nếu máu được dồn từ dây rốn vào đứa trẻ, số lượng hồng cầu tăng thêm từ 0.5 tới 0.75 triệu trong vài giờ đầu, để tổng lượng hồng cầu là 4.75 triệu/mm3, như được biểu thị ở hình. Sau đó, tuy nhiên, một ít hồng cầu được hình thành ở trẻ sơ sinh trong vài tuần đầu sau sinh, có lẽ do thiếu oxy máu kích thích của bào thai không còn xuất hiện để kích thích sản xuất tế bào hồng cầu. Do đó, như được biểu thị ở hình, lượng hồng cầu trung bình giảm đến thấp hơn 4 triệu/mm3 khoảng 6 đến 8 tuần tuổi. Từ đó trở đi, tăng hoạt động do đứa trẻ tạo những kích thích thích hợp để số lượng hồng cầu quay lại mức bình thường trong vòng 2-3 tháng sau đó. Ngay sau khi sinh, lượng tế bào bạch cầu của trẻ sơ sinh xấp xỉ 45,000/mm3, chúng cao hơn người trưởng thành khoảng 5 lần.

Hình. Sự thay đổi số lượng hồng cầu và nồng độ bilirubin trong huyết thanh trong 16 tuần đầu đời, cho thấy thiếu máu sinh lý ở 6 đến 12 tuần tuổi và tăng bilirubin sinh lý trong 2 tuần đầu.
Vàng da sơ sinh và nguyên hồng cầu sơ sinh
Bilirubin được hình thành trong bào thai có thể qua nhau thai vào người mẹ và được bài tiết qua gan của mẹ; nhưng ngay sau khi sinh, trẻ sơ sinh phải loại bỏ bilirubin qua gan của nó, mà trong tuần đầu tiên chức năng gạn còn kém và chưa đủ khả năng liên hợp một lượng đáng kể bilirubin với acid glucuronic để bài tiết vào mật. Hậu quả là nồng độ bilirubin huyết tương tăng từ mức bình thường ít hơn 1mg/dl đến trung bình 5mg/dl trong suốt 3 ngày đầu và sau đó giảm dần về giá trị bình thường khi gan bắt đầu thực hiện chức năng. Hiệu ứng này còn được gọi là tăng bilirubin máu sinh lý, được biểu thị ở hình, và nó được kết hợp với vàng da trẻ sơ sinh và đặc biệt là giác mạc trong một hoặc hai tuần.
Tuy nhiên, cho đến nay những bất thường quan trọng nguyên nhân của vàng da sơ sinh nghiêm trọng là rối loạn nguyên hồng cầu sơ sinh, được mô ta chi tiết trong mối liên hệ với yếu tố Rh không tương thích giữa bào thai và mẹ. Tóm lại, rối loạn nguyên hồng cầu trẻ em hồng cầu di truyền yếu tố Rh+ từ người cha, trong khi người mẹ là Rh-. Người mẹ sau đó trở thành gây tự miễn chống lại yếu tố Rh+ (một protein) trong các tế bào máu của bào thai, và các kháng thể của người mẹ phá vỡ các tế bào hồng cầu bào thai, giải phóng một số lượng lớn bilirubin vào máu bào thai và thường dẫn đến chết thai do không đủ số lượng hồng cầu. Trước khi ra đời phương pháp điều trị sản khoa hiện đại, những trường hợp nhẹ hoặc nặng của những tình trạng này xuất hiện với 1 trên mỗi 50-100 trẻ sơ sinh.
Bài viết cùng chuyên mục
Ảnh hưởng của gia tốc tuyến tính lên cơ thể
Vấn đề cũng xẩy ra trong quá trình giảm tốc, khi tàu không gian trở vào khí quyển. Một người di chuyển ở Mach 1 (tốc độ âm thanh và của máy bay nhanh) có thể giảm tốc an toàn trong khoảng cách tầm 0.12 dặm.
Cấu tạo cơ bản của một tế bào động vật
Các bào quan và thể vùi nằm lơ lững trong dịch tế tương. Từ bào tương (cytoplasm) dùng để bao hàm cả dịch tế bào, tất cả các bào quan.
Canxi ở huyết tương và dịch nội bào
Nồng độ canxi trong huyết tương chỉ chiếm khoảng 1 nửa tổng. Canxi dạng ion tham gia vào nhiều chức năng ,bao gồm tác dụng của canxi lên tim, hệt thần kinh, sự tạo xương.
Sự thích nghi của áp suất ô xy máu thấp và ảnh hưởng cấp của giảm ô xy máu
Một trong ảnh hưởng quan trọng nhất của giảm oxy máu là giảm nhận thức, gây nên giảm tư duy, trí nhớ, và hiệu suất của các vận động phức tạp.
Giải phẫu và chức năng của ốc tai
Ốc tai là một hệ thống các ống xoắn. Nó bao gồm 3 ống xoắn nằm cạnh nhau: (1) thang tiền đình, (2) thang giữa (ống ốc tai) và (3) thang nhĩ.
Đo điện thế màng tế bào
Để tạo ra một điện thế âm bên trong màng, chính các ion dương chỉ đủ phát triển lớp điện thế lưỡng cực ở màng phải được vận chuyển ra phía ngoài.
Tác dụng của insulin lên chuyển hóa protein và tăng trưởng
Cách mà insulin làm tăng tổng hợp protein chưa được hiểu rõ như với cơ chế trong dự trữ glucose và chất béo. Đây là một vài kết quả ghi nhận trong thực tế.
Giải phẫu và sinh lý của tụy
Tụy tiết nhiều hormon, như amylin, somatostatin, và pancreatic polypeptide, chức năng của chúng chưa được biết rõ. Mục đích chính là bàn về vai trò sinh lý của insulin và glucagon và sinh lý bệnh của các bệnh lý.
Phản xạ của dạ dày ruột
Sự sắp xếp về mặt giải phẫu của hệ thần kinh ruột và các đường kết nối của nó với hệ thần kinh thực vật giúp thực hiện ba loại phản xạ dạ dày-ruột có vai trò thiết yếu.
Báo động hoặc phản ứng stress của hệ thần kinh giao cảm
Hệ giao cảm cũng đặc biệt được kích hoạt mạnh mẽ trong nhiều trạng thái cảm xúc. Ví dụ, trong trạng thái giận dữ, vùng dưới đồi sẽ bị kích thích, các tín hiệu sẽ được truyền xuống qua hệ thống lưới của thân não.
Các cơ chế giữ ổn định mắt của tiền đình và yếu tố khác
Mỗi thời điểm đầu bị quay đột ngột, những tín hiệu từ các ống bán khuyên khiến cho mắt quay theo một hướng cân bằng và đối diện với sự quay của đầu. Chuyển động đó có nguồn gốc từ các phản xạ từ nhân tiền đình và bó dọc giữa.
Sự khuếch tán dễ qua màng tế bào
Khuếch tán được làm dễ cần đến sự giúp đỡ của protein mang. Protein mang giúp một phân tử hay ion đi qua màng bởi liên kết hóa học với chúng.
Kiểm soát cục bộ lưu lượng máu đáp ứng nhu cầu của mô
Lưu lượng máu đến da quyết định sự thải nhiệt từ cơ thể, giúp kiểm soát nhiệt độ cơ thể. Ngoài ra sự vận chuyển đầy đủ máu đến thận cho phép thận lọc và bài tiết các chất thải của cơ thể, điều chỉnh thể tích dịch cơ thể và chất điện giải.
Ảnh hưởng của ion kali và canxi trong hoạt động của tim
Khi có nồng độ cao kali trong dịch ngoại bào sẽ một phần khử cực màng tế bào, làm điện thế màng bớt âm. Khi điện thế màng giảm, cường độ điện thế hoạt đọng cũng giảm, làm cho sự co bóp cơ tim yếu dần.
Cường độ âm thanh: xác định bởi hệ thính giác
Sự thay đổi trong cường độ âm thanh mà tai có thể nghe và phân biệt được, cường độ âm thanh thường được thể hiện bằng hàm logarit của cường độ thực tế của chúng.
Tăng huyết áp: gây ra bởi sự kết hợp của tăng tải khối lượng và co mạch
Tăng huyết áp di truyền tự phát đã được quan sát thấy ở một số chủng động vật, bao gồm các chủng chuột, thỏ và ít nhất một chủng chó.
Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone
Cấu trúc hóa học và sự chuyển hóa của các hormone protein và polypeptide, các steroid, dẫn xuất của amino acid tyrosin.
Cử động định hình của mắt: cử động làm cho mắt tập trung
Vận động chú ý tự ý được điều hòa bởi một vùng vỏ não ở hai bên vùng tiền vận động của thùy trán. Mất chức năng hai bên hoặc tổn thương vùng này gây khó khăn cho việc mở khóa mắt.
Cấu trúc hóa học và sự tổng hợp insulin
Khi insulin được bài tiết vào máu, nó hầu như lưu thông ở dạng tự do. Bởi vì nó có thời gian bán hủy trung bình chỉ khoảng 6 phút nên phần lớn chúng bị loại bỏ khỏi tuần hoàn.
Đường kính đồng tử: cơ chế quang học của mắt
Khả năng hội tụ tốt nhất có thể đạt được là khi lỗ đồng tử co nhỏ tối đa. Lí giải cho điều đó, với một lỗ đồng tử rất nhỏ, gần như tất cả các tia sáng đi qua trung tâm của hệ thấu kính của mắt.
Tác dụng feedback của hormon giáp làm giảm bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên
Để đạt được mức độ bài tiết lý tưởng, cơ chế feedback cụ thể tác dụng thông qua tuyến dưới đồi và thùy trước tuyến yên để kiểm soát tốc độ bài tiết của tuyến giáp.
Cung lượng tim: đánh giá qua lưu lượng kế điện tử hoặc siêu âm
Lưu lượng máu sẽ được tính thông qua tốc độ vận chuyển máu qua động mạch chủ, diện tích mặt cắt ngang động mạch chủ được đánh giá thông qua đo đường kính thành mạch dưới hướng dẫn siêu âm.
Tiêu hóa Carbohydrate sau khi ăn
Có 3 nguồn carbohydrate quan trọng là sucrose, disaccharide thường được biết như là đường mía, lactose, chúng là một disaccharide được tìm thấy trong sữa; và tinh bột.
Chức năng dự báo của hệ thống ống bán khuyên để duy trì sự thăng bằng
Các ống bán khuyên dự đoán được trước rằng sự mất thăng bằng sắp xảy ra và do đó khiến các trung tâm giữ thăng bằng thực hiện sự điều chỉnh phù hợp từ trước, giúp người đó duy trì được thăng bằng.
Điều khiển bài tiết hormone qua cơ chế feedback
Mặc dù nồng độ các hormone trong huyết tương luôn dao động theo từng mức độ kích thích khác nhau trong ngày, nhưng sự xuất hiện của tất cả hormone phải được kiểm soát chặt chẽ.
