- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Tổng hợp và bài tiết hormon vỏ thượng thận
Tổng hợp và bài tiết hormon vỏ thượng thận
Bài tiết aldosterone và cortisol được điều hòa bởi cơ chế riêng. Angiotensin II làm tăng số lượng aldosterone và gây ra sự nở to của lớp cầu, không ảnh hưởng 2 vùng khác.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Vỏ thượng thận có ba lớp
Vỏ thượng thận gồm 3 lớp riêng biệt:
Lớp cầu (zona glomerulosa), là một lớp tế bào mỏng nẳm dưới vỏ tuyến, chiếm khoảng 15% vỏ thượng thận. Những tế bào này chỉ là một trong những tế bào của tuyến thượng thận có thể tiết số lượng đáng kể aldosteron do chúng chứa enzym tổng hợp aldosterone cần thiết cho tổng hợp aldosteron. Bài tiết của các tế bào này được điều khiển chủ yếu bởi angiotensin II và kali của dịch ngoại bào, cả hai đều kích thích tiết aldosteron.
Lớp bó (zona fasciculata), nằm ở giữa và là vùng rộng nhất, chiếm khoảng 75% vỏ thượng thận và tiết các glucocorticoid cortisol và corticosterone, cùng lượng nhỏ hormon sinh dục (adrenal androgen) và estrogen. Bài tiết của các tế bào này được điều khiển phần lớn bởi trục tuyến yên dưới đồi qua adrenocorti-cotropic hormone (ACTH).
Lớp lưới (zona reticularis), vùng trong nhất của vỏ, tiết hormon sinh dục dehydroepiandrosterone và androstenedione, cũng như một lượng nhỏ estrogen và một ít glucocorticoid. ACTH cũng điều hòa bài tiết của các tế bào này, mặc dù yếu tố khác như là hormone kích thích androgen vỏ não, được giải phóng từ tuyến yên, cũng có thể tham gia.

Hình. Sự bài tiết hormone vỏ thượng thận bởi các khu vực khác nhau của vỏ thượng thận và bài tiết catecholamine bởi tủy thượng thận.
Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát sản xuất hormon sinh dục là không được biết giống như glucocorticoid và mineralocorticoid.
Bài tiết aldosterone và cortisol được điều hòa bởi cơ chế riêng. Angiotensin II làm tăng số lượng aldosterone và gây ra sự nở to của lớp cầu, không ảnh hưởng 2 vùng khác. Tương tự, ACTH làm tăng tiết cortisol và các hormon sinh dục và gây ra phì đại lớp bó và lớp lưới, ảnh hưởng ít tới lớp cầu.
Hormon vỏ thượng thận là steroid, chuyển hóa từ cholesterol
Tất cả hormon steroid của con người, bao gồm hormon sản xuất từ lớp vỏ thượng thận, tổng hợp từ cholesterol. Mặc dù tế bào vỏ thượng thận có thể tổng hợp một lần nữa lượng nhỏ cholesterol từ acetate, khoảng 80% cholesterol sử dụng tổng hợp steroid được cấp bởi các lipoproteins tỷ trọng thấp (LDLs) trong huyết tương. Khi nồng độ cholesterol máu cao, LDLs khuếch tán từ huyết tương vào dịch kẽ và gắn với recepter đặc biệt gắn trong các cấu trúc là lõm áo (coated pits) trên màng tế bào vỏ thượng thận. Lõm áo được hấp thu sau đó bởi nội thực bào (endocytosis), tạo thành dạng túi là dạng hợp nhất với các tế bào lysosome và giải phóng cholesterol nó có thể được sử dụng tổng hợp các hormon steroid hình thành các túi mà cuối cùng kết hợp được với lysosome của tế bào và giải phóng cholesterol có thể được sử dụng để tổng hợp hormone steroid thượng thận. Vận chuyển cholesterol vào trong tế bào thượng thận được điều hòa bởi cơ chế feedback nó có thể thay đổi rõ số lượng để tổng hợp steroid. Ví dụ, ACTH kích thích tuyến thượng thận tổng hợp steroid, tăng số lượng recepter tế bào vỏ thượng thận với LDL, cũng như hoạt động của enzym giải phóngs cholesterol từ LDL.
Một lần cholesterol vào trong tế bào, nó giải phóng ra mitochondria, nơi nó cắt ra bởi enzyme cholesterol desmolase thành dạng pregnenolone; đây là bước giới hạn tỷ lệ trong hình thành cuối cùng steroid thượng thận (HÌNH 78-2). Trong tất cả 3 vùng của vỏ thượng thận, đây là bước đầu tổng hợp steroid được kích thích bởi các yếu tố khác nhau. Nó điều khiển bài tiết sản phẩm hormon chính aldosterone và cortisol. Ví dụ, cả ACTH kích thích tiết cortisol, và angiotensin II kích thích tiết aldosterone, tăng chuyển cholesterol thành pregnenolone.
Con đường tổng hợp steroid tuyến thượng thận
Các bước chủ yếu trong quá trình tổng hợp những sản phẩm steroid quan trọng của vỏ thượng thận: aldosterone, cortisol, và androgen. Về bản chất tất cả các bước tiếp xảy ra ở 2 trong các cơ quan của tế bào, ty thể (mitochondria) và mạng lưới nội chất (endoplasmic reticulum), một vài bước xảy ra tại 1 trong những cơ quan này và mộtvài cơ quan khác. Mỗi bước được xúc tác bởi một hệ thống enzym đặc biệt.thay đổi ngay cả một enzym đơn giản trong sơ đồ có thể gây ra các loại khác biệt lớn và liên quan lỷ lệ của hormon được hình thành. Ví dụ, số lượng rất lớn hormon sinh dục nam hóa (masculinizing sex hormones) hoặc hợp chất steroid khác không biểu hiện bình thường trong máu có thể xảy ra với hoạt động thay đổi của chỉ một trong các enzym của con đường này.

Hình. Con đường tổng hợp hormone steroid của vỏ thượng thận. Các enzym được in nghiêng.
Công thức hóa học của aldosterone và cortisol, chủ yếu trong lần lượt hormone mineralocorticoid và glucocorticoid. Cortisol có một keto-oxygen trên cacbon số 3 và được hydroxyl hóa ở vị trí carbon số 11 và 21. Aldosterone có một nguyên tử oxy gắn với vị trí cacbon 18.
Ngoài aldosterone và cortisol, các steroid khác có hoạt tính glucocorticoid hoặc mineralocorticoid, hoặc cả 2 đều được vỏ thượng thận tiết ra với một lượng nhỏ. Hơn nữa, thêm một vài hormon steroid tác dụng mạnh là dạng không thường gặp trong tuyến thượng thận được tổng hợp và sử dụng nhiều trong lâm sàng. Một vài trong số những hormon steroid quan trọng hơn.
Nhóm hormon vỏ chuyển muối nước (Mineralocorticoid)
1. Aldosterol (tác dụng mạnh; chiếm khoảng 90% hoạt tính).
2. Desoxycorticosterone (độ mạnh bằng 1/30 aldosterone, lượng bài tiết rất nhỏ)
3. Corticosteron (hoạt tính yếu)
4. 9α-Fluorocortisol (tổng hợp; hoạt tính yếu hơn aldosterone)
5. Cortisol (hoạt tính rất yếu nhưng bài tiết một lượng lớn).
6. Cortison (hoạt tính chuyển hóa muối nước yếu)
Nhóm hormon chuyển hóa muối đường (Glucocorticoid)
1. Cortisol (rất mạnh; chiếm 95% tổng hoạt tính)
2. Corticosterol (tác dụng yếu hơn nhiều cortisol, chiếm 4% tổng hoạt tính)
3. Cortison (mạnh gần như costisoll)
4. Prenisolon (tổng hợp; mạnh 4 lần cortisol)
5. Methylprednisone (tổng hợp; mạnh gấp 5 lần cortisol)
6. Dexamethason (tổng hợp; mạnh gấp 30 lần cortisol)

Bảng. Hormone tuyến thượng thận ở người lớn; Steroid tổng hợp và các hoạt động của Glucocorticoid và Mineralocorticoid tương đối của chúng
Rõ ràng từ danh sách này, một số trong những hormon này và steroid tổng hợp có cả hoạt tính glucocorticoid và mineralocorticoid. Nó đặc biệt ý nghĩa, cortisol thường có một số hoạt tính mineralocorticoid, do một số hội chứng của bài tiết quá mức cortisol có thể gây ra các tác dụng chuyển hóa muối nước đáng kể, cùng với nó có hoạt tính chuyển hóa đường mạnh.
Hoạt tính chuyển hóa đường rất mạnh của horom tổng hợp dexamethasone, nó hầu như không có hoạt động chuyển hóa muối nước, tạo ra một thuốc có chức năng đặc biệt để kích thích hoạt tính chuyển hóa muối nước đặc biệt.
Hormon vỏ thượng thận được gắn với các protein huyết tương
Khoảng 90-95% cortisol trong huyết tương gắn với protein huyết tương, đặc biệt một protein huyêt tương là cortisolbinding globulin hoặc transcortin, một lượng nhỏ gắn với albumin. Liên kết protein mức độ lớn làm chậm thải trừ của cortisol; do đó, cortisol có thời gian bán hủy tương đối từ 60-90 phút. Chỉ khoảng 60% phức hợp aldosteron lưu hành với protein huyết tương, do đó khoảng 40% ở dạng tự do; kết quả là aldosterone có thời gian bán thải tương đối ngắn khoảng 20 phút. Những hormon này được vận chuyển xuyên qua dịch gian bào ở dạng gắn kết và cả dạng tự do.
Gắn steroid thượng thận với protein huyết tương có thể đáp ứng giống như một kho dự trữ để giảm sự biến động nhanh nồng độ hormon tự do, ví dụ, với cotisol trong thời gian ngắn của stress và tiết ACTH từng đợt. Chức năng chứa này có thể đảm bảo phân bố tương đối đồng đều của hormon thượng thận tới các mô.
Hormon vỏ thượng thận được chuyển hóa ở gan
Các hormon steroid thượng thận được thoái hóa chính ở gan và được kết hợp tạo ra glucuronic acid, đến một mức độ thấp hơn, thành sunfat. Những chất này là không hoạt động và không có được hoạt tính mineralocorticoid hoặc glucocorticoid. Khoảng 25% loại liên hợp là được bài tiết vào trong mật và sau đó được đẩy ra phân. Phần còn lại của dạng kết hợp tại gan thì đi vào tuần hoàn máu nhưng không gắn với protein huyết tương, lượng lớn được hòa tan trong huyết tương, và sau đó được lọc ở thận và bài tiết ra nước tiểu. Các bệnh của gan làm giảm rõ tỷ lệ mất hoạt tính của hormon vỏ thượng thận, và các bệnh của thận làm giảm khả năng bài tiết của các chất không hoạt động.
Nồng độ hormon aldosterol bình thường trong máu là khoảng 6 nanogram (6 tỷ của gram) trên 100 ml, mức tiết trung binh khoảng 150 µg/ngày (0.15 mg/ngày). Tuy nhiên, nồng độ trong máu của aldosterol trong máu phụ thuộc lớn vào một sô yếu tố bao gồm chế độ ăn uống có natri và kali.
Nồng độ costisol trong máu trung bình là 12 µg/100 ml, tiết trung bình 15 tới 20 mg/ngày. Tuy nhiên, nồng độ trong máu và mức tiết ra của costisol lại dao động suốt cả ngày, tăng vào sáng sớm và giảm vào buổi tối.
Bài viết cùng chuyên mục
Sự bài tiết dịch tụy của tuyến tụy
Dịch tụy được bài tiết phần lớn là do đáp ứng với sự có mặt của dịch nhũ chấp tại phần trên của ruột non, và đặc tính của dịch tụy được xác định bởi mức độ có mặt của một số loại thức ăn trong nhũ chấp.
Tế bào: đơn vị cấu trúc và chức năng của cơ thể
Tế bào chỉ có thể sống, phát triển và thực hiện các chức năng của nó trong môi trường tập trung của oxygen, glucose, các ion, amino acid, chất béo và các chất cần thiết khác trong một môi trường.
Bài tiết hormone tăng trưởng (GH) của vùng dưới đồi, hormone kích thích tiết GH, và somatostatin
Hầu hết sự điều khiển bài tiết hormone GH có lẽ thông qua hormone GHRH hơn là hormone somatostatin, GHRH kích thích bài tiết GH qua việc gắn với các receptor đặc hiệu trên bề mặt màng ngoài của các tế bào tiết GH ở thùy yên trước.
Bạch huyết: các kênh bạch huyết của cơ thể
Hầu như tất cả các mô của cơ thể có kênh bạch huyết đặc biệt dẫn dịch dư thừa trực tiếp từ khoảng kẽ. Các trường hợp ngoại lệ bao gồm các phần của bề mặt da, hệ thống thần kinh trung ương, các màng của cơ bắp và xương.
Kiểm soát giải phóng năng lượng trong tế bào
Cơ chế xúc tác phản ứng hoá học của enzyme, trước hết là nhờ sự kết hợp lỏng lẻo với một trong các chất phản ứng, thay thế cầu nối bền chặt trong phân tử chất để có thể phản ứng được với các chất khác.
Đại cương sinh lý học về máu
Máu được tim bơm vào hệ thống mạch máu và đi khắp cơ thể. Trong công tác chăm sóc sức khoẻ, máu đặc biệt được quan tâm vì có nhiều xét nghiệm chẩn đoán được thực hiện trên máu.
Trao đổi chất của cơ tim
ATP này lần lượt đóng vai trò như các băng tải năng lượng cho sự co cơ tim và các chức năng khác của tế bào. Trong thiếu máu mạch vành nặng, ATP làm giảm ADP, AMP và adenosine đầu tiên.
Ảnh hưởng của hormon tuyến giáp đến chức năng cụ thể của cơ thể
Tác dụng lên chuyển hóa carbohydrate, chuyển hóa chất béo, mỡ trong máu và trong gan, nhu cầu vitamin, chuyển hóa cơ sở, trọng lượng cơ thể, dòng máu và lưu lượng tim.
Sự vận chuyển CO2 trong máu và mô kẽ
Khi các tế bào sử dụng O2, hầu hết sẽ tạo ra PO2, và sự biến đổi này làm tăng PCO2 nội bào; vì PCO2 nội bào tăng cao nên CO2 khuếch tán từ tế bào vào các mao mạch và sau đó được vận chuyển trong máu đến phổi.
Sinh lý tiêu hóa ở miệng và thực quản
Nhai là hoạt động cơ học của miệng có tác dụng nghiền xé thức ăn và trộn đều thức ăn với nước bọt. Nhai là một động tác nửa tự động, có lúc nhai được thực hiện tự động nhưng có khi được thực hiện chủ động.
Ngoại tâm thu nút nhĩ thất hoặc bó his: rối loạn nhịp tim
Sóng P thay đổi nhẹ hình dạng phức bộ QRS nhưng không thể phân biệt rõ sóng P. Thông thường ngoại tâm thu nút A-V có chung biểu hiện và nguyên nhân với ngoại tâm thu nhĩ.
Kiểm soát lưu lượng máu mô bằng các yếu tố thư giãn hoặc co thắt có nguồn gốc từ nội mô
Điều quan trọng nhất của các yếu tố giãn mạch nội mô là NO, một khí ưa mỡ được giải phóng từ tế bào nội mô đáp ứng với rất nhiều kích thích hóa học và vật lý.
Cortisol quan trọng trong chống stress và chống viêm
Mặc dù cortisol thường tăng nhiều trong tình trạng stress, một khả năng là glucocorticoid làm huy động nhanh acid amin và chất béo từ tế bào dự trữ.
Kiểm soát chức năng tình dục nam giới bằng các hormone vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên
LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hoàn bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc biệt tron tế bào đích tương ứng.
Hệ thống thần kinh của ruột: chi phối thần kinh đường tiêu hóa
Mặc dù hệ thần kinh ruột có chức năng độc lập với hệ thần kinh ở bên ngoài, nhưng khi bị kích thích bởi hệ giao cảm và phó giao cảm có thể làm tăng hoặc giảm chức năng của ruột, điều này chúng ta sẽ thảo luận sau.
Giai đoạn thể tích và áp lực của tuần hoàn động mạch và tĩnh mạch
Sự duy trì trương lực là một trong những cách hệ tuần hoàn tự động thích nghi trong thời gian khoảng vài phút đến vài giờ nếu lượng máu bị mất sau một xuất huyết nặng.
Tổng hợp ATP do oxy hóa Hydrogen - Sự Phosphoryl-Oxy hóa
Oxy hóa hydro được thực hiện, bởi một chuỗi các phản ứng được xúc tác bởi các enzym trong ty thể, biến mỗi nguyên tử hydro thành ion H+ cùng với một electron và sau đó dùng electron này gắn với oxy hòa tan.
Khả năng hoạt động của cơ thể: giảm khả năng hoạt động ở vùng cao và hiệu quả của thích nghi
Người bản xứ làm việc ở những nơi cao có thể đạt hiệu suất tương đương với những người làm việc ở đồng bằng. Người đồng bằng có khả năng thích nghi tốt đến mấy cũng không thể đạt được hiệu suất công việc cao như vậy.
Sinh lý học thính giác và bộ máy thăng bằng (tiền đình)
Tai ngoài có loa tai và ống tai ngoài. Loa tai ở người có những nếp lồi lõm, có tác dụng thu nhận âm thanh từ mọi phía mà không cần xoay như một số động vật.
Dẫn truyền các tín hiệu cảm giác: con đường trước bên cho tín hiệu ít quan trọng
Đa số tín hiệu đau tận cùng ở nhân lưới cuả thân não và từ đây, chúng được chuyển tiếp đến nhận liềm trong của đồi thị, nơi các tín hiệu đau được xử lí tiếp.
Vai trò trung tâm của Glucose trong chuyển hóa Carbohydrate
Sản phẩm cuối cùng của quá trình tiêu hóa carbohydrate trong đường tiêu hóa hầu như toàn bộ là glucose, fructose và galactose - với glucose trung bình chiếm khoảng 80 phần trăm.
Chất dẫn truyền thần kinh: đặc điểm của nhóm phân tử lớn
Sự hình thành các chất dẫn truyền nhóm phân tử lớn này phức tạp hơn, nên số lượng của chúng nhỏ hơn so với nhóm phân tử nhỏ.
Điều hòa bài tiết hormone chống bài niệu (ADH)
Khi dịch ngoại bào trở nên quá ưu trương, do áp suất thẩm thấu nên dịch sẽ đi ra ngoài các tế bào receptor thẩm thấu, làm giảm kích thước tế bào và phát ra các tín hiệu lên vùng dưới đồi để tăng bài tiết ADH.
Sóng chạy: sự dẫn truyền của sóng âm trong ốc tai
Các kiểu dẫn truyền khác nhau của sóng âm với các tần số khác nhau. Mỗi sóng ít kết hợp ở điểm bắt đầu nhưng trở nên kết hợp mạnh mẽ khi chúng tới được màng nền, nơi có sự cộng hưởng tự nhiên tần số bằng với tần số của các sóng riêng phần.
Dịch não tủy và chức năng đệm của nó
Chức năng chính của dịch não tủy là lót đệm cho não trong hộp sọ cứng. Não và dịch não tủy có cùng trọng trượng riêng (chỉ khác biệt 4%), do đo não nổi trong dịch não tủy.
