- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Dược lý của hệ thần kinh tự chủ
Dược lý của hệ thần kinh tự chủ
Các thuốc có tác dụng gián tiếp lên hệ giao cảm tại vị trí các cơ quan đích của hệ giao cảm bị kích thích trực tiếp. Bao gồm các thuốc ephedrine, tyramine, và amphetamine.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các thuốc tác động trên các cơ quan đích của hệ adrenergic - Các thuốc có tác dụng giao cảm
Noradrenalin đường tiêm tĩnh mạch gây ra các tác dụng trên cơ thể tương tự như sự kích thích hệ giao cảm. Do đó, noradrenalin được gọi là một thuốc có tác dụng giao cảm hay thuốc có tác dụng adrenegic. Adrenalin và methoxamine cũng là các thuốc có tác dụng giao cảm, và còn rất nhiều thuốc khác. Chúng khác nhau ở mức độ kích thích và thời gian tác dụng trên mỗi cơ quan của hệ giao cảm. Nordrenalin và adrenalin có tác dụng ngắn trong 1 tới 2 phút, trong khi tác dụng của một vài thuốc phổ biến khác kéo dài 30 phút tới 2 giờ. Các thuốc quan trọng kích thích đặc hiệu các receptor thuộc hệ adrenergic là phenylephrine (receptor alpha), isoproterenol (receptor beta), và albuterol (chỉ receptor beta2).
Các thuốc gây giải phóng noradrenalin từ các tận cùng thần kinh
Các thuốc có tác dụng gián tiếp lên hệ giao cảm tại vị trí các cơ quan đích của hệ giao cảm bị kích thích trực tiếp. Bao gồm các thuốc ephedrine, tyramine, và amphetamine. Tác dụng của chúng gây giải phóng noradrenalin từ các túi dự trữ tại các tận cùng thần kinh. Noradrenalin sau khi được giải phóng gây ra các hiệu ứng giao cảm.
Các thuốc ức chế hoạt động của hệ adrenergic
Hoạt động của hệ adrenergic có thể bị ức chế ở vài vị trí trên hệ thống hoạt động. Các vị trí đó là:
1. Sự tổng hợp và dự trữ noradrenalin trong các tận cùng thần kinh có thể bị chặn lại. Thuốc được biết đến nhiều nhất là reserpine.
2. Sự giải phóng noradrenalin từ các tận cùng giao cảm có thể bị ức chế. Tác dụng này có thể bị gây ra bởi guanethidine.
3. Các receptor alpha của hệ giao cảm có thể bị ức chế. Hai thuốc tác động trên cả receptor alpha1 và alpha2 là phenoxybenzamine và phentolamine. Tác dụng chon lọc trên alpha1 gồm có prazosin và terazosin, trong khi yohimbine chỉ có tác dụng trên receptor alpha2.
4. Các receptor beta của hệ giao cảm có thể bị ức chế. Một thuốc có tác dụng ức chế receptor beta1 và beta2 là propranolol. Các thuốc ức chế chủ yếu receptor beta1 là atenolol, nebivolol, và metoprolol.
5. Các hoạt động giao cảm có thể bị ức chế bởi các thuốc gây ức chế dẫn truyền các xung thần kinh qua hạch tự chủ. Một thuốc quan trọng làm ức chế dẫn truyền của cả hệ giao cảm và phó giao cảm là hexamethonium.
Các thuốc tác động trên các cơ quan đích của hệ cholinergic
Các thuốc có tác dụng phó giao cảm (Các thuốc Cholinergic). Acetylcholin tiêm tĩnh mạch thường không gây chính xác tác dụng trên cơ thể giống như sự kích thích hệ phó giao cảm do hầu hết acetylcholin bị phá hủy bới cholinesterase ở trong máu và các dịch cơ thể.
Trước khi chúng tới được tất cả các cơ quan đích. Tuy nhiên một số thuốc khác không bị phá hủy nhanh có thể tạo ra các tác dụng điển hình của hệ phó giao cảm; chúng được gọi là các thuốc có tác dụng phó giao cảm.
Hai thuốc tác động trên hệ phó giao cảm thông thường được sử dụng là pilocarpine và methacholine. Chúng tác động trực tiếp trên các receptor của hệ cholinergic loại muscarinic.
Các thuốc làm tăng tác dụng của hệ phó giao cảm – các thuốc kháng cholinesterase. Một số thuốc không có tác động trực tiếp trên các cơ quan đích của hệ phó giao cảm nhưng làm tằng cường tác dụng của acetylcholin được tiết ra tự nhiên tại các tận cùng thần kinh phó giao cảm. Chúng là các thuốc làm tăng tác dụng của acetylcholin tại các synap thần kinh – cơ. Các thuốc này bao gồm neostigmine, pyridostigmine, và ambenonium. Chúng ức chế acetylcholinestarase, do đó ngăn chặn sự phá hủy nhanh của acetylcholin được giải phóng tại các tận cùng thần kinh phó giao cảm. Hệ quả là làm tăng số lượng acetylcholin với các kích thích kế tiếp nhau, và mức độ của hoạt động cũng gia tăng.
Các thuốc ức chế hoạt động của hệ cholinergic tại cơ quan đích – các thuốc kháng muscarinic. Atropin và các thuốc tương tự như homatropin và scopolamin làm bất hoạt tác động của acetylcholine lên các receptor muscarinic trên các cơ quan đích của hệ cholinergic. Các thuốc này không ảnh hưởng tới việc hoạt hóa các receptor nicotinic của acetylcholin trên các neuron hậu hạch hoặc trên cơ vân.
Bài viết cùng chuyên mục
Tiêu hóa Carbohydrate sau khi ăn
Có 3 nguồn carbohydrate quan trọng là sucrose, disaccharide thường được biết như là đường mía, lactose, chúng là một disaccharide được tìm thấy trong sữa; và tinh bột.
Chu chuyển của tim
Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.
Điều hòa thần kinh trong việc bài tiết nước bọt
Sự kích thích giao cảm có thể làm tăng một lượng nhỏ nước bọt - ít hơn so với kích thích phó giao cảm. Thần kinh giao cảm bắt nguồn từ các hạch cổ trên và đi dọc theo bề mặt của các mạch máu tới tuyến nước bọt.
Đường cong áp suất động mạch chủ
Sau khi van động mạch chủ đóng, áp suất động mạch chủ giảm chậm suốt thì tâm trương do máu chứa trong các động mạch chun co giãn tiếp tục chảy qua các mạch ngoại vi để về tĩnh mạch.
Nguyên nhân tử vong sau khi tắc mạch vành cấp tính
Khi tim trở nên không có khả năng tạo đủ lực để bơm đủ máu ra nhánh động mạch, suy tim và các mô ngoại vi hoại tử xảy ra sau đó như là kết quả của thiếu máu ngoại vi.
Ngoại tâm thu thất: rối loạn nhịp tim
Những người thường xuyên có ngoại tâm thu thất có nguy cơ cao hơn bị rung thất dẫn đến tử vong mà nguyên nhân là do một đợt ngoại tâm thu thất.
Chức năng sinh lý của oxytocin
Oxytocin làm co tử cung khi mang thai, khiến vú bài xuất sữa, Hormone oxytocin, kích thích mạnh mẽ co tử cung khi mang thai, nhất là trong giai đoạn cuối của thai kì.
Cơ tâm thất của tim: sự dẫn truyền xung động
Các cơ tim bao phủ xung quanh tim trong một xoắn kép, có vách ngăn sợi giữa các lớp xoắn; do đó, xung động tim không nhất thiết phải đi trực tiếp ra ngoài về phía bề mặt của tim.
Sinh lý tiêu hóa ở miệng và thực quản
Nhai là hoạt động cơ học của miệng có tác dụng nghiền xé thức ăn và trộn đều thức ăn với nước bọt. Nhai là một động tác nửa tự động, có lúc nhai được thực hiện tự động nhưng có khi được thực hiện chủ động.
Phân ly oxy - hemoglobin: các yếu tố thay đổi và tầm quan trọng tới sự vận chuyển ô xy
pH giảm hơn giá trị bình thường từ 7,4 xuống tới 7,2; đồ thị phân ly Oxy- hemoglobin chuyển sang phải trung bình khoảng 15 %. Ngược lại, sự gia tăng pH từ bình thường 7,4 lên tới7,6 đường cong cũng chuyển sang trái một lượng tương tự.
Nguồn gốc của chất dinh dưỡng trong dịch ngoại bào
Trong tất cả, dịch ngoại bào chỉ chiếm khoảng một phần ba tổng số dịch của cơ thể. Đây là điển hình ở người, nhưng tỷ lệ có thể thay đổi ở các sinh vật khác có chế độ lưu thông khác nhau.
Dịch não tủy và chức năng đệm của nó
Chức năng chính của dịch não tủy là lót đệm cho não trong hộp sọ cứng. Não và dịch não tủy có cùng trọng trượng riêng (chỉ khác biệt 4%), do đo não nổi trong dịch não tủy.
Sóng vận mạch huyết áp: dao động của hệ thống điều chỉnh phản xạ huyết áp
Khoảng thời gian cho mỗi chu kỳ là 26 giây đối với chó đã gây mê, 7-10 giây ở người không gây mê. Sóng này được gọi là sóng vận mạch hay sóng Mayer.
Feedback âm của estrogen và progesterone làm giảm bài tiết FSH và LH
Ngoài ảnh hưởng của feedback âm tính của estrogen và progesterone, vài hormone khác cũng tham gia vào việc này, đặc biệt là inhibin- được tiết ra cùng với các hormone steroid giới tính bởi các tế bào hạt tại hoàng thể.
Phân loại cơ trơn
Cơ trơn ở mỗi cơ quan có các đặc điểm khác nhau: (1) kích thước (2) sự sắp xếp trong các bó (3) đáp ứng với các kích thích khác nhau (4) đặc điểm phân bố thần kinh (5) chức năng.
Hệ thống thần kinh của ruột: chi phối thần kinh đường tiêu hóa
Mặc dù hệ thần kinh ruột có chức năng độc lập với hệ thần kinh ở bên ngoài, nhưng khi bị kích thích bởi hệ giao cảm và phó giao cảm có thể làm tăng hoặc giảm chức năng của ruột, điều này chúng ta sẽ thảo luận sau.
Trạm thần kinh: sự kéo dài tín hiệu thần kinh bằng trạm thần kinh “Sự kích ứng tồn lưu”
Khi các synap kích thích trên bề mặt của sợi nhánh hay thân của một nơ-ron, một điện thế sau synap tạo ra trong tế bào thần kinh và kéo dài trong nhiều mili giây, đặc biệt là khi có mặt một số chất dẫn truyền ở synap hoạt hóa kéo dài.
Khoảng các từ vật tới mắt: xác định chiều sâu
Nếu ta đã biết một người nào đó cao 6 feet, ta có thể biết được người đó cách ta bao xa thông qua kích thước ảnh của người đó trên võng mạc.
Sự đào thải các hormone khỏi hệ tuần hoàn
Có hai yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ của các hormone trong máu, yếu tố là mức độ bài tiết hormone vào máu và yếu tố mức độ đào thải hormone ra khỏi máu.
Vi tuần hoàn não: hệ thống mao mạch não
Thành của các tiểu động mạch nhỏ sát mao mạch trở lên rất dày ở những người có tăng huyết áp, và các tiểu động mạch đó duy trì tình trạng co thắt rõ rệt liên tục nhằm ngăn áp lực cao truyền đến mao mạch.
Khuếch tán khí qua màng hô hấp: các yếu tố ảnh hưởng
Hệ số khuếch tán khí phụ thuộc vào khả năng hòa tan của khí trong màng tế bào, và hệ số này tỷ lệ nghịch với trọng lượng phân tử. Tỷ lệ khuếch tán khí trong màng hô hấp là gần như chính xác tương tự như trong nước.
Rung nhĩ: nhịp thất không đều
Nút A-V sẽ không truyền nút xung thứ hai trong vòng 0,35s sau xung đầu tiên, xung thêm trong khoảng rộng từ 0-0,6s diễn ra trước một trong các xung của rung nhĩ không đều đến nút nhĩ thất.
Hô hấp trong tập luyện thể thao
Có một mối quan hệ tuyến tính. Cả tiêu thụ oxy và tổng thông khí phổi tăng gấp khoảng 20 lần từ trạng thái nghỉ ngơi và cường độ tập luyện tối đa ở các vận động viên được tập luyện tốt.
Tăng lưu lượng tim và tăng huyết áp: vai trò của thần kinh xương và thần kinh cơ xương
Mặc dù hoạt động thần kinh điều khiển tuần hoàn nhanh nhất là qua hệ thần kinh tự chủ, nhưng một vài trường hợp hệ thần kinh cơ xương lại đóng vai trò chính trong đáp ứng tuần hoàn.
Sự bài tiết ở ruột non và chất nhầy của tuyến brunner ở tá tràng
Hoạt động của chất nhày được bài tiết bởi tuyến Brunner là để bảo vệ thành tá tràng khỏi sự phân giải của dịch vị chứa acid được đưa đến từ dạ dày.
