Chức năng của não và giao tiếp - ngôn ngữ vào và ngôn ngữ ra

2021-12-06 01:38 PM

Dưới sự hỗ trợ của bản đồ giải phẫu đường đi thần kinh, chức năng của vỏ não trong giao tiếp. Từ đây chúng ta sé thấy nguyên tắc của phân tích cảm giác và điều khiển vận động được thực hiện như thế nào.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Một trong những khác biệt quan trọng nhất giữa con người và các động vật khác là ở điều kiện thuận lợi mà con người có thể giao tiếp với nhau. Hơn nữa, vì những test đánh giá thần kinh có thể dễ dàng đánh giá khả năng một người giao tiếp với người khác mà chúng ta biết thêm về hệ cảm giác và vận động liên quan đến hoạt động giao tiếp hơn bất kỳ phần nào khác của chức năng vỏ não. Do đó, chúng ta sẽ xem xét lại, dưới sự hỗ trợ của bản đồ giải phẫu đường đi thần kinh, chức năng của vỏ não trong giao tiếp. Từ đây chúng ta sé thấy nguyên tắc của phân tích cảm giác và điều khiển vận động được thực hiện như thế nào.

Giao tiếp gồm hai phần: cảm giác(ngôn ngữ vào), liên quan đến mắt và tai, và vận động (ngôn ngữ ra), liên quan đến phát âm và sự điều khiển nó.

Phần cảm giác của giao tiếp

Ở những phần trước chúng ta biết rằng sự phá hủy phần chi phối thính giác hoặc thị giác ở võ não có thể dẫn tới không hiểu được ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết. Chúng được lần lượt gọi là chứng thất ngôn tiếp nhận thính giác (auditory receptive aphasia) và chứng thất ngôn tiếp nhận thị giác (visual receptive aphasia) hay thông thường hơn gọi là, điếc ngôn ngữ (word deafness) và mù ngôn ngữ (word blindness/ dyslexia).

Chứng mất ngôn ngữ Wernicke và chứng mất ngôn ngữ toàn bộ

Một số người có khả năng hiểu được ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết nhưng không thể giải thích chúng một cách rõ ràng. Điều này đa số xảy ra khi vùng Wernicke ở hồi thái dương sau của trên bán cầu ưu thế bị tổn thương hoặc bị phá hủy. Do đó, loại thất ngôn này được gọi là thất ngôn Wernicke. Khi tổn thương ở vùng Wernicke lan rộng và kéo dài (1) về phía sau đến vùng nếp cuộn góc, (2) xuống dưới đến vùng dưới thùy thái dương, và (3) lên trên đến vùng cao cấp biên giới của khe Sylvian, hầu hết sẽ bị loạn hiểu ngôn ngữ hoặc giao tiếp, do đó được gọi là thất ngôn toàn bộ.

Phần vận động của giao tiếp

Quá trình nói gồm hai giai đoạn tinh thần chính: (1) sự hình thành ý nghĩ của suy nghĩ một cách nhanh chóng, cũng nhý chọn từ ðể sử dụng, sau ðó (2) ðiều khiển sự vận ðộng phát âm.

Sự hình thành suy nghĩ và sau đó chọn từ ngữ là chức năng của vùng liên hợp cảm giác của não. Trở lại, vùng Wernicke ở phần sau của hồi thái dương trên rất quan trọng cho khả năng này. Do đó, một người hoặc bị thất ngôn Wernicke hoặc bị thất ngôn toàn bộ không thể biểu đạt được suy nghĩ để giao tiếp. Hoặc, nếu tổn thương ít hơn, người đó vẫn có thể biểu đạt được suy nghĩ nhưng không thể nối các từ liên tiếp với nhau một cách rõ ràng. Những người này thỉnh thoảng vẫn hiểu các từ lưu loát nhưng chúng bị sắp xếp lộn xộn.

Mất vùng Broca gây ra chứng mất ngôn ngữ vận động

Đôi khi một người có thể quyết định cái mà họ muốn nói nhưng không thể phát âm ra được từ đó mà thay vào đó là những tiếng ồn ào vô nghĩa. Điều này được gọi là thất ngôn vận động, kết quả của việc tổn thương vùng vận ngôn Broca, nằm ở vùng trước trán và tiền vận động của vỏ não -khoảng 95% trường hợp ở bán cầu trái. Thể thức vận động tinh tế (skilled motor patterns) như diều khiển thanh quản, môi, miệng, hệ hô hấp, và các cơ phụ khác tham gia phát âm được chi phối bởi vùng này.

Bản đồ các khu vực chức năng cụ thể trong vỏ não

Hình. Bản đồ các khu vực chức năng cụ thể trong vỏ não, hiển thị các khu vực đặc biệt của Wernicke và Broca để hiểu ngôn ngữ và giọng nói, 95% tất cả mọi người nằm ở bán cầu não trái.

Các con đường của não (trên) để nhận thức một từ đã nghe

Hình. Các con đường của não (trên) để nhận thức một từ đã nghe và sau đó nói cùng một từ dưới (dưới) và nhận thức một từ đã viết và sau đó nói cùng một từ.

Phát âm

Cuối cùng, hoạt động phát âm, có nghĩa là vận động cơ miệng, lưỡi, thanh quản, dây thanh, tạo ra âm điệu, hợp lý thời gian, và thay đổi nhanh chóng độ mạnh của chuỗi âm thanh. Vùng mặt và thanh quản của vỏ não vận động chi phối hoạt động cơ, tiểu não, hạch nền, và vỏ não cảm giác giúp cho việc điều khiển sự liên tiếp và độ mạnh của co cơ, bằng cách sử dụng feedback hạch nền và feedback tiểu não được mô tả trong Chapters 56 và 57. Sự phá hủy bất kỳ một vùng nào ở trên cũng có thể gây mất khả năng phát âm hoàn toàn hay một phần.

Tóm lược

Hai con đường cơ bản của giao tiếp. Con đường gồm nghe và nói. Chuỗi này như sau: (1) tiếp nhận tín hiệu âm thanh mă hóa ngôn ngữ ở vùng thính giác nguyên phát (primary auditory area); (2) hiểu ngôn ngữ ở vùng Wernicke; (3) quyết định, cũng ở vùng Wernicke, suy nghĩ và ngôn ngữ được nói ra; (4) truyền tín hiệu từ vùng Wernicke đén vùng Broca theo đường bó cong (arcuate fasciculus); (5) hoạt động chương trình vận động tinh tế ở vùng Broca để điều khiển sự hình thành ngôn ngữ; và (6) truyền tín hiệu thích hợp vào vỏ não vận động để điều khiển các cơ phát âm.

Bước so sánh ở đọc và sau đó là nói. Vùng tiếp nhận ngôn ngữ đầu tiên ở trên vùng thị giác nguyên phát (primary visual area) hơn là ở trên vùng thính giác nguyên phát (primary auditory area). Thông tin sau đó được hiểu ở vùng hồi góc (angular gyrus region) và cuối cùng đi đến vùng Wernicke.

Bài viết cùng chuyên mục

Block nhĩ thất không hoàn toàn: chặn đường truyền tín hiệu điện tim

Một điện tâm đồ có P-R kéo dài khoảng 0.3s thay vì bình thường khoảng 0,2s hoặc ít hơn. Do đó, block độ 1 được định nghĩa là sự chậm dẫn truyền từ nhĩ đến thất chứ không phải mất hẳn dẫn truyền.

Báo động hoặc phản ứng stress của hệ thần kinh giao cảm

Hệ giao cảm cũng đặc biệt được kích hoạt mạnh mẽ trong nhiều trạng thái cảm xúc. Ví dụ, trong trạng thái giận dữ, vùng dưới đồi sẽ bị kích thích, các tín hiệu sẽ được truyền xuống qua hệ thống lưới của thân não.

Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường

Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.

Cảm giác thân thể: con đường dẫn truyền vào hệ thần kinh trung ương

Các thông tin cảm giác từ các phân đoạn thân thể của cơ thể đi vào tủy sống qua rễ sau của dây thần kinh sống. Từ vị trí đi vào tủy sống và sau là đến não, các tín hiệu cảm giác được dẫn truyền qua một trong 2 con đường thay thế.

Kiểm soát hành vi đối với nhiệt độ cơ thể

Kiểm soát hành vi đối với nhiệt độ cơ thể là một cơ chế điều nhiệt hữu hiệu hơn nhiều các nhà sinh lý học từng thừa nhận trước đây, nó là một cơ chế thực sự hữu hiệu để duy trì nhiệt độ trong các môi trường rất lạnh.

Trao đổi canxi giữa xương và dịch ngoại bào

Một phần nhỏ dạng canxi dễ trao đổi này cũng là dạng canxi được tìm thấy trong tất cả các tế bào mô, đặc biệt là trong các tế bào có tính thấm cao như gan và đường tiêu hóa.

Những emzym tiêu hóa của tuyến tụy

Khi ban đầu được tổng hợp trong các tế bào tụy, những enzyme phân giải protein tồn tại ở trạng thái không hoạt động gồm trypsinogen, chymotrypsinogen và procarboxypolypeptidase.

Hệ số lọc của mao mạch

Để ngăn chặn sự tích lũy của dịch dư thừa trong khoảng kẽ sẽ yêu cầu tốc độ dòng chảy chất lỏng vào hệ thống bạch huyết tăng 68 lần, một lượng mà là 2-5 lần cũng là quá nhiều cho các mạch bạch huyết mang đi.

Nút xoang (xoang nhĩ): hệ thống kích thích và dẫn truyền của tim

Nút xoang nhỏ, dẹt, hình dải elip chuyên biệt của cơ tim rộng khoảng 3mm, dài 15mm và dày 1mm. Nó nằm ở sau trên vách tâm nhĩ phải, ngay bên dưới và hơi gần bên chỗ mở của tĩnh mạch chủ trên.

Đái tháo đường type 2: kháng insulin

Bệnh tiểu đường type 2 là phổ biến hơn so với type 1, chiếm khoảng 90% đến 95% của tất cả các bệnh nhân đái tháo đường. Trong hầu hết các trường hợp, sự khởi đầu của bệnh tiểu đường type 2 xảy ra sau tuổi 30, thường ở độ tuổi từ 50 đến 60.

Thùy trước và thùy sau tuyến yên

Hai thùy tuyến yên có nguồn gốc khác nhau, thùy trước từ túi Rathke, là một vùng lõm vào của lớp thượng bì hầu họng, và thùy sau từ một mô thần kinh phát triển ra từ vùng dưới đồi.

Điều hòa gen trong cơ thể người

Ở động vật có nhiều loại tế bào, mô, cơ quan khác nhau, các điều hòa biểu hiện gen khác nhau cũng cho phép nhiều loại tế bào khác nhau trong cơ thể thực hiện các chức năng chuyên biệt của chúng.

Hàng rào máu dịch não tủy và hàng rào máu não

Hàng rào tồn tại ở cả đám rối mạch mạc và ở quanh mao mạch não tại hầu hết các vùng nhu mô não ngoại trừ một số vùng như vùng dưới đồi, tuyến tùng và vùng postrema, nơi các chất khuếch tán dễ dàng vào mô não.

Dải cảm giác giữa: đặc điểm dẫn truyền và phân tích tín hiệu trong hệ thống cột tủy sau

Hầu như mọi con đường cảm giác, khi bị kích thích, làm phát sinh đồng thời các tín hiệu ức chế bên; những tín hiệu ức chế lan truyền sang các bên của tín hiệu kích thích và các nơ-ron ức chế lân cận.

Giải phẫu hệ động mạch cấp máu đường tiêu hóa

Cấu trúc đặc biệt của hệ thống mạch máu ở nhung mao ruột bao gồm các động mạch và tĩnh mạch nhỏ được kết nối với nhau bởi hệ thống mao mạch nhiều vòng.

Sinh lý hệ thần kinh tự động

Receptor tiếp nhận norepinephrin của hệ giao cảm được gọi là noradrenergic receptor, bên cạnh norepinephrin, các receptor này cũng đáp ứng với epinephrin.

Sự tiết Progesterone của nhau thai

Progesterone góp phần vào sự phát triển của thai, làm tăng bài tiết của ống dẫn trứng và tử cung người mẹ ddeer cung cấp  chất dinh dưỡng thích hợp cho sự phát triển của phôi dâu và túi phôi.

Tăng vận chuyển ô xy đến mô: CO2 và H+ làm thay đổi phân ly oxy-hemoglobin (hiệu ứng bohr)

Khi máu đi qua các mô, CO2 khuếch tán từ tế bào ở mô vào máu, sự khuếch tán này làm tăng PCO2 máu, do đó làm tăng H2CO3 máu (axit cacbonic) và nồng độ ion H+. Hiệu ứng này sẽ làm chuyển dịch đồ thị phân ly oxy- hemoglobin sang bên phải và đi xuống.

Chất dẫn truyền thần kinh: phân tử nhỏ tốc độ và tái chế

Trong hầu hết các trường hợp, các chất dẫn truyền thần kinh có phân tử nhỏ được tổng hợp tại bào tương của trạm trước synap và được vận chuyển tích cực vào túi chứa chất dẫn truyền.

Đường truyền thần kinh thính giác: cơ chế thính giác trung ương

Trong trung tâm thính giác của thân não, sự kích thích thường không còn đồng bộ với tần số âm thanh trừ khi với âm thanh có tần số dưới 200 chu kỳ/giây.

Sự bài tiết ở ruột non và chất nhầy của tuyến brunner ở tá tràng

Hoạt động của chất nhày được bài tiết bởi tuyến Brunner là để bảo vệ thành tá tràng khỏi sự phân giải của dịch vị chứa acid được đưa đến từ dạ dày.

Tác dụng lên thận và tuần hoàn của Aldosterol

Aldosterol làm tăng tái hấp thu natri và đồng thời tăng bài tiết kali trong các tế bào chính của ống thận nhỏ nhưng cũng bài tiết ion hydro để trao đổi với kali vào trong tế bào vỏ ống góp.

Dậy thì và kinh nguyệt ở phụ nữ

Người ta cho rằng sự khởi động giai đoạn dậy thì được kích thích bởi các quá trình hoàn thiện xảy ra tại một vùng khác ở não, có thể ở đâu đó trên hệ viền.

Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh

Đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau, một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan và hệ thống kiểm soát chưa được thích nghi.

Hormone tăng trưởng (GH) kích thích phát triển sụn và xương

Khi đáp ứng với kích thích của GH, các xương dài phát triển chiều dài của lớp sụn đầu xương, nguyên bào xương ở vỏ xương và trong một số khoang xương gây lắng đọng xương mới vào bề mặt của các xương cũ.