Áp suất dịch não tủy bình thường không đổi

2022-02-15 02:15 PM

Áp suất dịch não tủy bình thường khi nằm trung bình là 130 mm nước (10mmHg), tuy nhiên áp suất này cũng có thể thấp chỉ 65 mm nước hoặc cao đến 195 mm nước ở người khỏe mạnh bình thường.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Điều hòa áp suất dịch não tủy nhờ nhung mao màng nhện

Tốc độ sản xuất dịch não tủy bình thường là không đổi nên hiếm khi ảnh hưởng đến điều hòa áp suất. Ngược lại, nhung mao màng nhện hoạt động như một “van” chỉ cho dịch não tủy và các thành phần khác chảy vào máu tĩnh mạch mà không theo hướng ngược lại. Thông thường, van này sẽ cho dịch não tủy chảy vào máu khi mà áp suất dịch não tủy cao hơn 1,5mmHg so với áp suất máu trong xoang tĩnh mạch. Nếu áp suất dịch não tủy tăng cao hơn nữa thì van sẽ mở rộng hơn. Trong điều kiện bình thường, áp suất dịch não tủy gần như không cao quá vài milimet thủy ngân so với áp suất trong xoang tĩnh mạch.

Trong tình trạng bệnh lý, các nhung mao đôi khi bị tắc bởi các mảnh kích thước lớn, bởi sợi huyết, hoặc quá nhiều tế bào máu thoát vào dịch não tủy trong các bệnh não. Sự tắc nghẽn đó có thể làm tăng áp suất dịch não tủy như được mô tả dưới đây.

Tăng áp suất dịch não tủy trong các tình trạng bệnh lý của não

Một khối u não lớn thường làm tăng áp suất dịch não tủy do làm giảm hấp thu dịch não tủy trở lại máu. Kết quả là áp suất dịch não tủy có thể tăng cao đến 500mm nước (37mmHg) hay gấp 4 lần bình thường.

Áp suất dịch não tủy có thể cũng tăng cao khi có nhiễm trùng hoặc chảy máu trong hộp sọ. Trong cả hai trường hợp, số lượng lớn hồng cầu và/hoặc bạch cầu đột ngột có mặt trong dịch não tủy có thể gây tắc nghiêm trọng những kênh hấp thu qua nhung mao màng nhện. Đoi khi áp suất dịch não tủy cũn tăng cao 400 đến 600mm nước (gấp khoảng 4 lần bình thường).

Một số trẻ em sinh ra với áp suất dịch não tủy cao hơn bình thường, nguyên nhân thường do sự hấp thu dịch não tủy qua nhung mao màng nhện bị cản trở, hậu quả của việc có quá ít nhung mao hoặc bất thường trong quá trình hấp thu. Vấn đề này sẽ được bàn luận cùng với bệnh não úng thủy.

Đo áp suất dịch não tủy

Cách thức đo áp duất dịch não tủy khá đơn giản: đầu tiên, bệnh nhân nằm trên mặt phẳng ngang để áp suất dịch trong hộp sọ cân bằng với trong ống tủy. Một kim nhỏ được chọc vào ống tủy đoạn thắt lưng dưới chóp tủy, sau đó kim được nối với một ống thủy tinh dựng thẳng đứng, đầu trên ống để hở. Dịch não tủy sẽ tự dâng cao trong ống, nếu nó dâng lên mức 136mm so với kim thì áp suất đo đýợc là 136mm nýớc - hay, chia con số này cho 13,6 là trọng lýợng riêng của thủy ngân, khoảng 10mmHg.

Tắc nghẽn dòng chảy dịch não tủy có thể gây não úng thủy

“Não úng thủy” nghĩa là có quá nhiều nước trong hộp sọ. Tình trạng này thường được chia thành thể lưu thông và thể không lưu thông. Trong thể lưu thông, dịch não tủy chảy từ hệ não thất đến được khoang dưới nhện, ngược lại trong thể không lưu thông, dịch não tủy bị tắc lại ở một hay nhiều não thất.

Não úng thủy thể không lưu thông thường do tắc ở cống Sylvius, hậu quả của hẹp, tắc trước sinh ở nhiều trẻ em hoặc bị chèn ép bởi u não ở bất kỳ lứa tuổi. Dịch não tủy sinh ra ở não thất bên và não thất ba khiến thể tích của chúng tăng mạnh, khiến não căng lên thành một vỏ mỏng dưới xương sọ. Ở trẻ sơ sinh, tăng áp suất dịch não tủy cũng khiến đầu chúng phồng to bởi các xương sọ chưa liền với nhau.

Não úng thủy thể lưu thông thường do tắc nghẽn ở khoang dưới nhện xung quanh vùng nền sọ hoặc do tắc nghẽn các nhung mao màng nhện nơi mà thông thường dịch não tủy được hấp thu vào xoang tĩnh mạch. Dịch não tủy sẽ tập trung quanh não cũng như một phần ít hơn trong các não thất. Tình trạng này cũng gây phồng to đầu nếu xảy ra ở trẻ nhỏ khi mà hộp sọ còn mềm và có thể dãn nở, nó cũng gây tổn thương não dù ở bất kỳ lứa tuổi nào. Một phương pháp điều trị cho nhiều thể khác nhau của não úng thủy là phẫu thuật đặt một ống silicon nối thông từ não thất đến khoang phúc mạc, nơi mà dịch não tủy có thể được hấp thu vào máu.

Bài viết cùng chuyên mục

Vỏ não thị giác: nguồn gốc và chức năng

Vỏ não thị giác nằm chủ yếu trên vùng trung tâm của thùy chẩm. Giống như các vùng chi phối khác trên vỏ não của các hệ thống giác quan khác, vỏ não thị giác được chia thành một vỏ não thị giác sơ cấp và các vùng vỏ não thị giác thứ cấp.

Vùng dưới đồi: cơ quan đầu não của hệ limbic

Vùng dưới đồi, mặc dù kích thước nhỏ, chỉ vài cm (nặng khoảng 4 gram),  nhưng có 2 đường truyền tới tất cả cấu trúc của hệ limbic. Vùng dưới đồi và cấu trúc phụ liên quan gửi xung động đi ra theo 3 đường.

Hormon tuyến giáp làm tăng hoạt động chuyển hóa tế bào

Hormon tuyến giáp tăng hoạt động chuyển hóa ở hầu hết tất cả các mô trong cơ thể. Mức chuyển hóa cơ sở có thể tăng 100 phần trăm trên mức bình thường nếu hormon tuyến giáp được bài tiết nhiều.

Dẫn truyền thị giác: đường dẫn truyền từ hai võng mạc đến vỏ não thị giác

Đường dẫn thị giác có thể được chia sơ bộ thành một hệ thống cũ tới trung não và nền não trước và một hệ thống mới để truyền trực tiếp tín hiệu hình ảnh về vỏ não thị giác ở thùy chẩm.

Hiệu quả của hệ thống điều hòa cơ thể

Nếu xem xét sự tự nhiên của điều hòa ngược dương tính, rõ ràng điều hòa ngược dương tính dẫn đến sự mất ổn định chức năng hơn là ổn định và trong một số trường hợp, có thể gây tử vong.

Tổng quan tác dụng của PTH

PTH kích thích tiêu hủy xương, giải phóng canxi vào dịch ngoại bào, làm tăng tái hấp thu canxi và giảm tái hấp thu phosphate của ống thận, dẫn đến giảm bài tiết canxi và tăng bài tiết phosphate.

Tiêu hóa thực phẩm khi ăn bằng thủy phân

Tất cả ba loại thức ăn, quá trình thủy phân cơ bản giống nhau. Sự khác biệt chỉ nằm ở những loại enzyme cần thiết để thúc đẩy những phản ứng thủy phân cho từng loại thức ăn.

Nhịp tim nhanh: nhịp xoang không bình thường

Thuật ngữ “Chứng nhịp tim nhanh” nghĩa là tim đập với tốc độ nhanh hoặc tim đập nhanh hơn 100 nhịp/phút ở người bình thường.

Vận chuyển các chất qua màng bào tương bằng túi

Trong bào tương các túi nhập bào sẽ hoà lẫn với lysosome, các thành phần trong túi nhập bào sẽ bị thủy phân bởi các enzyme

Sinh lý hệ thần kinh tự động

Receptor tiếp nhận norepinephrin của hệ giao cảm được gọi là noradrenergic receptor, bên cạnh norepinephrin, các receptor này cũng đáp ứng với epinephrin.

Năng lượng yếm khí so với hiếu khí trong cơ thể

Năng lượng ATP có thể sử dụng cho các hoạt động chức năng khác nhau của tế bào như tổng hợp và phát triển, co cơ, bài tiết, dẫn truyền xung động thần kinh, hấp thu tích cực.

Điều hòa vận động: vai trò của phản xạ căng cơ

Phản xạ căng cơ có thể chia làm 2 loại: động và tĩnh. Phản xạ động là phản xạ sinh ra từ đáp ứng động của suốt cơ, gây ra bởi sự căng ra hay co lại một cách nhanh chóng.

Điện thế màng được tạo ra bởi nồng độ các ion

Dưới điều kiện thích hợp sự chênh lệch nồng độ các ion qua màng bán thấm chọn lọc, tạo nên điện thế màng.

Ảnh hưởng của tập luyện thể thao trên cơ và hiệu suất cơ

Ở tuổi già, nhiều người trở nên ít vận động do đó cơ của họ teo rất nhiều. Trong những trường hợp này, tuy nhiên, tập luyện cho cơ có thể tăng sức mạnh cơ bắp hơn 100 %.

Chức năng vận động của thân não

Thân não hoạt động giống như một trạm chung chuyển cho các mệnh lệnh từ trung tâm thần kinh cao hơn. Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn luận về vai trò của thân não trong việc chi phối cử động của toàn bộ cơ thể và giữ thăng bằng.

Vai trò của hải mã trong học tập

Hải mã bắt nguồn như một phần của vỏ não thính giác. Ở nhiều động vật bậc thấp, phần vỏ não này có vai trò cơ bản trong việc xác định con vật sẽ ăn thức ăn ngon hay khi ngửi thấy mùi nguy hiểm.

Cơ thể cân đối kéo dài cuộc sống với thể thao

Cải thiện cơ thể cân đối cũng làm giảm nguy cơ một vài loại bệnh ung thư như ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, và ung thư đại tràng. Phần lớn các tác dụng có lợi của tập luyện có thể liên quan đến việc giảm béo phì.

Tuần hoàn phổi: giải phẫu sinh lý tuần hoàn mạch máu và bạch huyết

Động mạch phổi có thành dày bằng 1/3 của động mạch chủ. Các nhánh động mạch phổi ngắn và tất cả các động mạch phổi, thậm chí nhỏ hơn động mạch nhánh và tiểu động mạch, có đường kính lớn hơn động mạch toàn thân tương ứng.

Sinh lý điều trị đái tháo đường

Insulin có một số dạng. Insulin "Thường xuyên" có thời gian tác dụng kéo dài 3-8 giờ, trong khi các hình thức khác của insulin được hấp thụ chậm từ chỗ tiêm và do đó có tác dụng kéo dài đến 10 đến 48 giờ.

Trí nhớ ngắn hạn của con người

Nhiều nhà sinh lý học cho rằng loại trí nhớ ngắn hạn này do sự tiếp tục của hoạt động thần kinh từ tín hiệu các dây thần kinh đi vòng quanh và vòng quanh một dấu vết trí nhớ tạm thời ở một vòng của neuron phản xạ.

Các con đường thần kinh từ vỏ não vận động

Tất cả nhân nền, thân não và tiểu não đều nhận các tín hiệu vận động mạnh mẽ từ hệ thống vỏ-tủy mỗi khi một tín hiệu được truyền xuống tủy sống để gây ra một cử động.

Cấu trúc chức năng tế bào của Phospholipid và Cholesterol - Đặc biệt đối với màng

Phospholipids và cholesterol hình thành các yếu tố cấu trúc các tế bào là tốc độ đổi mới chậm của các chất trong hầu hết các mô ngoài mô gan được tính theo tháng hoặc theo năm.

TSH của thùy trước tuyến yên được điều hòa bởi TRH từ vùng dưới đồi

Sự bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên được kiểm soát bởi hormon vùng dưới đồi, thyrotropin releasing hormone, được bài tiết từ tận cùng thần kinh ở vùng lồi giữa vùng dưới đồi.

Phản xạ tự chủ của tủy sống: hệ thần kinh tự chủ được tích hợp trong tủy sống

Ở động vật có xương sống, đôi khi tủy sống có thể hoạt động quá mức, hoạt hóa mạnh phần lớn của tủy sống. Việc hoạt động quá mức này có thể gây ra do một kích thích đau mạnh mẽ lên da hoặc nội tạng.

Động tác bước và đi bộ: phản xạ tư thế

Các thông tin cảm giác từ bàn chân hay cảm giác tư thế từ các khớp đóng một vai trò quan trọng trong việc điều khiển áp lực bàn chân và bước đi liên tục.