- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Các chuyển đạo đơn cực chi: các chuyển đạo điện tâm đồ
Các chuyển đạo đơn cực chi: các chuyển đạo điện tâm đồ
Chuyển đạo đơn cực chi tương tự như các bản ghi chuyển đạo chi tiêu chuẩn, ngoại trừ bản ghi từ chuyển đạo aVR bị đảo ngược.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Một hệ thống khác của các chuyển đạo được sử dụng rộng rãi là chuyển đạo đơn cực chi tăng thêm. Trong ghi lại của loại này, hai trong số các chi được kết nối thông qua điện trở đến cực âm của máy ghi điện tim, và chi thứ ba được kết nối với cực dương. Khi cực dương ở trên cánh tay phải, chuyển đạo được gọi là chuyển đạo aVR; khi trên cánh tay trái, nó được gọi là chuyển đạo aVL; và khi trên chân trái, nó được gọi là chuyển đạo aVF.
Bản ghi bình thường của các chuyển đạo đơn cực chi được thể hiện ở hình. Tất cả chúng tương tự như các bản ghi chuyển đạo chi tiêu chuẩn, ngoại trừ bản ghi từ chuyển đạo aVR bị đảo ngược. (tại sao đảo ngược này xảy ra? Hãy nghiên cứu sự phân cực các kết nối tới máy ghi điện tim để xác định câu trả lời cho câu hỏi này).

Hình. Điện tâm đồ bình thường ghi lại từ ba chuyển đạo đơn cực chi.
Các phương pháp để ghi điện tâm đồ
Đôi khi các dòng điện tạo ra bởi cơ tim trong mỗi nhịp đập của của tim thay đổi điện thế và chiều phân cực trên các mặt tương ứng của tim trong ít hơn 0,01s. Do đó, điều cần thiết là bất kỳ thiết bị nào cho ghi lại ECG cần có khả năng đáp ứng nhanh chóng với những thay đổi về điện thế.
Các máy ghi điện tim hiện đại trên lâm sàng sử dụng các hệ thống dựa trên máy tính và màn hình điện tử.
Điện tâm đồ lưu động
ECG tiêu chuẩn cung cấp đánh giá các sự kiện điện tim trong một khoảng thời gian ngắn, thường là trong khi bệnh nhân đang nghỉ ngơi. Trong tình trạng kết hợp với những bất thường hiếm khi xảy ra nhưng quan trọng của nhịp điệu tim, nó có thể hữu ích để kiểm tra điện tâm đồ trong một thời gian lâu hơn, qua đó cho phép đánh giá các thay đổi các hiện tượng điện tim mà là thoáng qua và có thể bị bỏ sót với một ECG tiêu chuẩn. Kéo dài ECG để cho phép đánh giá các sự kiện điện tim trong khi bệnh nhân đang di chuyển trong các hoạt động hàng ngày bình thường được gọi là điện tim lưu động Sự giám sát điện tâm đồ lưu động thường được sử dụng khi một bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng được cho là gây ra bởi các rối loạn nhịp tim thoáng qua hoặc các bất thường tim thoáng qua khác. Những triệu chứng này có thể bao gồm đau ngực, ngất (xỉu) hoặc gần ngất xỉu, chóng mặt và nhịp tim không đều. Các thông tin quan trọng cần thiết để chẩn đoán, các rối loạn nhịp tim thoáng qua nghiêm trọng hoặc bệnh lý tim mạch khác là một bản ghi của một ECG trong thời gian chính xác mà triệu chứng đang xảy ra. Bởi vì sự thay đổi ngày qua ngày trong tần suất của các rối loạn nhịp tim là đáng kể, việc phát hiện thường đòi hỏi theo dõi điện tâm đồ lưu động suốt cả ngày.
Có hai loại máy ghi điện tâm đồ lưu động: (1) ghi liên tục, thường được sử dụng trong 24 đến 48 giờ để nghiên cứu mối quan hệ của các triệu chứng và các sự kiện ECG có khả năng xảy ra trong khoảng thời gian đó, và (2) ghi liên tục, đó là sử dụng trong thời gian dài hơn (vài tuần đến vài tháng) để cung cấp ngắn gọn, ghi lại liên tục để phát hiện các sự kiện xảy ra không thường xuyên. Trong một vài trường hợp một thiết bị nhỏ, có kích thước của một gói kẹo cao su và được gọi là một máy ghi vòng cấy dưới da, được cấy dưới da ở ngực để giám sát hoạt động điện của tim liên tục cho khoảng 2 đến 3 năm. Thiết bị này có thể được lập trình để bắt đầu ghi lại khi nhịp tim giảm xuống dưới hoặc tăng lên trên, một mức xác định trước, hoặc nó có thể được kích hoạt bằng tay bởi các bệnh nhân khi một triệu chứng như chóng mặt xảy ra. Những cải tiến trong công nghệ kỹ thuật số bán dẫn và máy ghi được trang bị với vi xử lý hiện nay cho phép truyền tải liên tục hoặc gián đoạn các dữ liệu ECG kỹ thuật số qua các đường dây điện thoại, và các hệ thống phần mềm tinh vi cung cấp nhanh chóng phân tích “trực tuyến” trên máy tính của dữ liệu khi chúng có được.
Bài viết cùng chuyên mục
Receptor: các loại và kích thích Receptor cảm giác
Danh sách và phân loại 5 nhóm receptor cảm giác cơ bản: receptor cơ học, receptor nhiệt, receptor đau, receptor điện từ, và receptor hóa học.
Sinh lý điều hòa lưu lượng máu não
Lưu lượng máu não của một người trưởng thành trung bình là 50 đến 65 ml/100 gam nhu mô não mỗi phút. Với toàn bộ não là từ 750 đến 900 ml/ phút. Theo đó, não bộ chỉ chiếm 2% trọng lượng cơ thể nhưng nhận 15% cung lượng tim lúc nghỉ.
Đại cương sinh lý thần kinh cao cấp
Người và các loài động vật cao cấp có một số hành vi và thái độ đáp ứng với hoàn cảnh mà các quy luật sinh lý thông thường không giải thích được. Ở ngườiì khi vui thì ăn ngon miệng, khi buồn thì chán không muốn ăn, mặc dầu đói.
Bài tiết chất nhầy và gastrin ở tuyến môn vị
Tế bào bài tiết một lượng nhỏ pepsinogen, như đã nói ở trên, và đặc biệt là bài tiết một lượng lớn lớp chất nhày mỏng để giúp bôi trơn thức ăn khi di chuyển, cũng như bảo vệ thành của dạ dày khỏi sự phân hủy của các enzyme.
Dịch não tủy và chức năng đệm của nó
Chức năng chính của dịch não tủy là lót đệm cho não trong hộp sọ cứng. Não và dịch não tủy có cùng trọng trượng riêng (chỉ khác biệt 4%), do đo não nổi trong dịch não tủy.
Sinh lý thần kinh hành não
Hành não là phần thần kinh trung ương tiếp nối với tủy sống, nằm ở phần thấp nhất của hộp sọ, ngay sát trên lỗ chẩm. Hành não là nơi xuất phát của nhiều dây thần kinh sọ (từ dây V đến dây XII) trong đó quan trọng nhất là dây X.
Sự phát triển của hệ cơ quan thai nhi
Sự phát triển các tế bào trên mỗi cơ quan thường chưa được hoàn thiện và cần 5 tháng mang thai còn lại để phát triển hoàn toàn. Ngay cả lúc sinh, những cấu trúc nhất định, đặc biệt là hệ thần kinh, thận và gan, thiếu sự phát triển hoàn toàn, như được mô tả sau.
Mức độ thiếu oxy mà một trẻ sơ sinh có thể chịu đựng được
Khi phế nang mở, hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến 60mmHg.
Tầm quan trọng của trung tâm thưởng phạt của hệ limbic đối với hành vi
Trải nghiệm của con vật qua trải nghiệm cảm giác gây ra trạng thái thưởng hay phạt sẽ được ghi nhớ lại. Điện não đồ cho thấy yếu tố trải nghiệm cảm giác luôn luôn kích thích nhiều vùng trên vỏ não.
Khuếch tán khí hô hấp: chênh lệch áp suất gây nên khuếch tán khí
Ngoài sự khác biệt áp suất, một số yếu tố khác ảnh hưởng đến tốc độ khuếch tán khí trong dịch, là độ tan của khí trong dịch, diện tích mặt cắt ngang của dịch, khoảng cách khí phải khuếch tán, trọng lượng của khí, và nhiệt độ dịch.
Hình thành bạch huyết của cơ thể
Hệ thống bạch huyết cũng là một trong những con đường chính cho sự hấp thụ các chất dinh dưỡng qua đường tiêu hóa, đặc biệt là cho sự hấp thụ của hầu như tất cả các chất béo trong thực phẩm.
Thị giác từ hai mắt: hợp nhất các hình ảnh
Sự tương tác diễn ra giữa các neuron ở vỏ não để kích thích can thiệp vào các neuron đặc hiệu khi hai hình ảnh thị giác không được “ghi nhận” - nghĩa là, không “hợp nhất” rõ ràng.
Ảnh hưởng của hormon tuyến giáp đến chức năng cụ thể của cơ thể
Tác dụng lên chuyển hóa carbohydrate, chuyển hóa chất béo, mỡ trong máu và trong gan, nhu cầu vitamin, chuyển hóa cơ sở, trọng lượng cơ thể, dòng máu và lưu lượng tim.
Các sợi thần kinh cảm giác hướng tâm từ ruột
Có nhiều sợi thần kinh cảm giác hướng tâm phân bố tại ruột. Một số sợi thần kinh có thân neuron nằm trong hệ thần kinh ruột và một số lại nằm trong hạch gai của tủy sống.
Khoảng các từ vật tới mắt: xác định chiều sâu
Nếu ta đã biết một người nào đó cao 6 feet, ta có thể biết được người đó cách ta bao xa thông qua kích thước ảnh của người đó trên võng mạc.
Hấp thu và bài tiết của canxi và phosphate
Thông thường ống thận hấp thu khoảng 99% lượng canxi, và khoảng 100mg/ngày tiết ra trong nước tiểu. khoảng 90 % canxi trong nước tiểu đầu được tái hấp thu ở ống lượn gần,quai henle, một phần đầu của ống lượn xa.
Miễn dịch ở trẻ sơ sinh
Trẻ sơ sinh hiếm khi bị dị ứng. Tuy nhiên, vài tháng sau đó, khi kháng thể của nó bắt đầu được hình thành, những trạng thái dị ứng nặng có thể tiến triển.
Block nhĩ thất hoàn toàn (block độ III): chặn đường truyền tín hiệu điện tim
Trong block độ III, không có mối liên quan giữa sóng P với phức bộ QRS vì thất đã “thoát” khỏi sự điển khiển của nhĩ và đang đập theo nhịp của chính nó.
Cơ chế tự điều hòa bơm máu của tim: cơ chế frank starling
Tìm hiểu với các điều kiện khác nhau, lượng máu tim bơm đi mỗi phút thông thường được xác định hầu hết qua tốc độn dòng máu qua tim từ tĩnh mạch, đó là các tĩnh mạch trở về.
Vai trò của insulin trong chuyển đổi carbohydrate và chuyển hóa lipid
Khi nồng độ glucose máu cao, insulin được kích thích bài tiết và carbohydrate được sử dụng thay thế chất béo. Glucose dư thừa trong máu được dự trữ dưới dạng glycogen và chất béo ở gan, glycogen ở cơ.
Tế bào: đơn vị cấu trúc và chức năng của cơ thể
Tế bào chỉ có thể sống, phát triển và thực hiện các chức năng của nó trong môi trường tập trung của oxygen, glucose, các ion, amino acid, chất béo và các chất cần thiết khác trong một môi trường.
Điện thế và thời gian chia chuẩn: điện tâm đồ bình thường
Những dòng dọc trên ECG là dòng thời gian chia chuẩn. Một ECG điển hình được chạy ở một tốc độ giấy 25mm/s, mặc dù tốc độ nhanh hơn đôi khi được sử dụng.
Tác dụng của corticoid lên chuyển hóa chất béo
Tăng huy động chất béo do cortisol giúp hệ thống chuyển hóa của tế bào sử dụng glucose từ sử dụng acid béo để sinh năng lượng trong khi đói hoăc các căng thẳng khác.
Chất kháng giáp ức chế bài tiết của tuyến giáp
Thuốc kháng giáp được biết đến nhất là thyocyanate, propyl-thiouracil, và nồng độ cao iod vô cơ, những thuốc này ngăn chặn bài tiết hormon giáp theo những cơ chế khác nhau.
Vai trò của các nhân não và tiền đình: nâng đỡ cơ thể chống lại trọng lực
Các nhân lưới được chia làm 2 nhóm chính: các nhân lưới ở cầu não, nằm ở phía sau bên của cầu não và kéo dài tới hành não, các nhân lưới ở hành não, kéo dài suốt toàn bộ hành não, nằm ở cạnh đường giữa.
