Mãn kinh ở phụ nữ

2020-06-06 10:41 AM

Khi mãn kinh, cơ thể người phụ nữ phải điều chỉnh từ trạng thái sinh lý được kích thích bởi estrogen và progesterone sang trạng thái không còn các hormone này.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đến khoảng 40- 50 tuổi, chu kì sinh dục thường bắt đầu bị rối loạn, và sự rụng trứng thường không xảy ra. Sau vài tháng đến vài năm, chu kì kết thúc hoàn toàn. Thời gian chu kì ngừng lại và các hormone sinh dục giảm xuống đến mức gần như biến mất hoàn toàn được gọi là giai đoạn mãn kinh.

Sự bài tiết estrogen trong tuổi sinh sản ở phụ nữ

Hình. Sự bài tiết estrogen trong tuổi sinh sản ở phụ nữ

Nguyên nhân gây ra mãn kinh là do buồng trứng bị “đốt cháy”. Trong độ tuổi sinh sản, có khoảng 400 nang trứng nguyên thủy phát triển thành nang trưởng thành và rụng trứng, và hàng tram đến hàng ngàn trứng bị thoái hóa. Ở độ tuổi 45, chỉ có vài nang nguyên thủy còn lại bị kích thích bởi FSH và LH, và như hình, cho thấy, sự bài tiết estrogen của buồng trứng giảm tương đương với sự giảm số lượng nang trứng và cuối cùng về mức không. Khi sự bài tiết estrogen giảm xuống dưới mức có thể gây ảnh hưởng, estrogen không còn khả năng ức chế sự bài tiết FSH và LH.Thay vào đó, như hình, FSH và LH (chủ yếu là FSH) vẫn được tiết ra sau khi mãn kinh với một lượng lớn và tăng dần, trong khi những nang trứng nguyên thủy còn lại bị teo và sự bài tiết estrogen của buồng trứng giảm xuống hầu như về không.

Khi mãn kinh, cơ thể người phụ nữ phải điều chỉnh từ trạng thái sinh lý được kích thích bởi estrogen và progesterone sang trạng thái không còn các hormone này. Sự mất đi estrogen thường được đánh dấu bởi sự thay đổi về sinh lý ở các chức năng của cơ thể, bao gồm (1) “cơn bốc hỏa”- có tính chất như nóng bừng da, (2) cảm giác như bị khó thở, (3) cáu gắt, (4) mệt mỏi, (5) bồn chồn, lo lắng, (6) dễ thay đổi trạng thái tâm lý, và (7)suy giảm độ cứng cũng như độ calci hóa xương của cơ thể. Những dấu hiệu này xuất hiện đầy đủ ở khoảng 15% số phụ nữ đến điều trị.

Việc cung cấp một lượng nhỏ estrogen hàng ngày thường cải thiện được các triệu chứng, và với quá trình giảm dần liều, phụ nữ mãn kinh có thể ngăn chặn được những triệu chứng này.

Các thử nghiệm lớn trên lâm sàng cho thấy cung cấ estrogen sau mãn kinh, mặc dù có thể cải thiện các triệu trứng của mãn kinh, nhưng có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Do đó, đièu trị hormone estrogen thay thế không còn được khuyến cáo dùng thường xuyên ở những phụ nữ sau khi mãn kinh. Tuy nhiên, trong một vài nghiêm cứu chỉ ra rằng liệu pháp estrogen có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch nếu được dùng sớm trong những năm đầu sau mãn kinh. Do đó, hiện tại liệu pháp estrogen vẫn được khuyến cáo rằng những phụ nữ sau mãn kinh đang được cân nhắc điều trị hormone estrogen thay thế nên thảo luận với bác sĩ điều trị về lợi ích và nguy cơ của phương pháp này.

Sự bài tiết bất thường của buồng trứng - Thiểu năng sinh dụcsự giảm bài tiết của buồng trứng

Buồng trứng bài tiết hormone thấp hơn bình thường có thể là hậu quả của thiểu năng buồng trứng, không có buồn trứng hoặc gen bất thường buồng trứng làm buồng trứng rối loạn bài tiết hormone bởi vì thiếu hụt emzym tại các tế bào chế tiết. Khi buồng trứng bất thường từ khi sinh ra hoặc buồng trứng bị mất chức năng trước tuổi dậy thì, sẽ xảy ra thiểu năng sinh dục nữ. Trong tình trạng này, đặc tính sinh dục thứ phát không xuất hiện, và cơ quan sinh dục vẫn còn ở hình dạng trẻ em. Đặc biệt tính chất của tình trạng này kéo dài sự phát triển của các xương dài bởi vì các đầu xương không kết hợp vào thân xương sớm như bình thường. Hậu quả là những người lưỡng giới nữ cơ bản là có chiều cao bằng hoặc có thể cao hơn một chút so với nam giới cùng châu lục và cùng chủng tộc.

Khi buồng trứng của người phụ nữ đã phát triển hoàn toàn bị lấy bỏ đi, các cơ quan sinh dục bị thoái hóa, như tử cung co nhỏ kích thước về kích thước tử cung trẻ em, âm đạo trở nên nhỏ lại, niêm mạc mỏng dần và dễ bị tổn thương. Vú cũng bị teo nhỏ và xệ xuống, lông mu cũng thưa đi. Những thay đổi này tương tự như ở phụ nữ mãn kinh.

Rối loạn kinh nguyệt, và hiện tượng vô kinh do thiểu năng sinh dục

Như đã nhắc đến trong phần Mãn kinh, lượng estrogen được bài tiết ở buồng trứng phải đạt ngưỡng nhất định mới có thể tạo ra nhịp chu kì sinh dục. Do đó, trong trường hợp bị thiểu năng sinh dục hoặc khi buồng trứng chỉ bài tiết một lượng nhỏ estrogen sau hậu quả của một số yếu tố khác, ví dụ như suy giáp, chu kì buồng trứng thường không thể diễn ra một cách bình thường. Thay vào đó, giai đoạn có kinh nguyệt sẽ mất nhanh trong vòng vài tháng hoặc kinh nguyệt đột ngột bị mất hoàn toàn (vô kinh). Chu kì buồng trứng bị kéo dài có thể liên quan đến khả năng suy chức năng rụng trứng, có thể do lượng LH tiết ra không đủ để tạo đỉnh LH- rất cần thiết cho sự rụng trứng.

Cường năng buồng trứng

Sự tăng tiết các hormone buồng trứng là một hiện tượng hiếm, bời vì sự bài tiết estrogen quá mức sẽ tự động giảm nồng độ các hormone điều hòa tuyến sinh dục do tuyến yên tiết ra, và làm giới hạn sự bài tiết hormone của buồng trứng. Do đó, sự tăng tiết hormone của feminizing chỉ gặp khi có khối u feminizing phát triển U tế bào hạt (hiếm gặp) có thể phát triển ở buồng trứng, hay xảy ra hơn khi ở độ tuổi mãn kinh. Những u này tiết ra một lượng lớn estrogen , làm ảnh hưởng của estrogen nhiều quá mức cần thiết, bao gồm phì đại nội mạc tử cung và thường gây ra chảy máu từ lớp nội mạc này. Thực tế, chảy máu là dấu hiệu đầu tiên và duy nhất của loại u này.

Bài viết cùng chuyên mục

Đại cương về hệ nội tiết và hormon

Hoạt động cơ thể được điều hòa bởi hai hệ thống chủ yếu là: hệ thống thần kinh và hệ thống thể dịch. Hệ thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm điều hoà thể tích máu, các thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các khí, ion.

Sự khuếch tán của khí qua màng hô hấp: sự trao đổi khí CO2 và O2

Tổng lượng máu có trong mao mạch phổi dạo động từ 60ml tới 140ml, ta thấy với một lượng nhỏ thể tích máu mao mạch mà tại mao mạch lại có tổng diện tích lớn nên thế sẽ rất dễ dàng cho sự trao đổi khí CO2 và O2.

Sự điều hòa bài tiết pepsinogen ở dạ dày

Tốc độ bài tiết pepsinogen - tiền chất của pepsin gây nên sự tiêu hóa protein - bị ảnh hưởng rất mạnh bởi lượng acid có mặt trong dạ dày. Ở những bệnh nhân mất khả năng bài tiết lượng acid cơ bản.

Sự vận chuyển O2 trong máu và mô kẽ

Các loại khí có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng cách khuếch tán và nguyên nhân của sự vận chuyển này là sự chênh lệch về phân áp từ vị trí đầu tiên cho tới vị trí tiếp theo.

Hô hấp trong tập luyện thể thao

Có một mối quan hệ tuyến tính. Cả tiêu thụ oxy và tổng thông khí phổi tăng gấp khoảng 20 lần từ trạng thái nghỉ ngơi và cường độ tập luyện tối đa ở các vận động viên được tập luyện tốt.

Dịch ngoại bào: môi trường trong cơ thể

Dịch ngoại bào và máu luôn có quá trình trao đổi qua lại với nhau nhờ quá trình khuếch tán dịch và chất tan qua thành các mao mạch, dịch ngoại bào chứa các ion và các chất dinh dưỡng và là môi trường.

Phân ly oxy - hemoglobin: các yếu tố thay đổi và tầm quan trọng tới sự vận chuyển ô xy

pH giảm hơn giá trị bình thường từ 7,4 xuống tới 7,2; đồ thị phân ly Oxy- hemoglobin chuyển sang phải trung bình khoảng 15 %. Ngược lại, sự gia tăng pH từ bình thường 7,4 lên tới7,6 đường cong cũng chuyển sang trái một lượng tương tự.

Điều hòa thần kinh của lưu lượng máu ống tiêu hóa

Sự kích thích hệ thần kinh phó giao cảm dẫn truyền tới dạ dày và đại tràng làm tăng lượng máu tại chỗ trong cùng một lúc và làm tăng hoạt động bài tiết của tuyến.

Sinh lý học các chất điện giải trong cơ thể

ADH tăng tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Khi Na+ máu dưới 135 mEq/l, thuỳ sau tuyến yên ngừng tiết ADH gây bài xuất nhiều nước tiểu loãng.

Vitamin D và vai trò kiểm soát nồng độ canxi huyết

Vitamin D3 còn gọi là cholecalciferol là hợp chất quan trọng nhất, được hình thành trong da do kết quả nhờ chiếu xạ của 7-dehydrocholesterol, một chất có trên da, bởi tia cực tím từ mặt trời.

Block nút xoang: chặn đường truyền tín hiệu điện tim

Tâm thất tự tạo nhịp mới với xung thường có nguồn gốc từ nút nhĩ thất,vì thế nên tần số xuất hiện của phức hệ QRS-T chậm lại nhưng không thay đổi hình dạng.

Đại cương sinh lý hệ thần kinh

Hệ thần kinh là cơ quan duy nhất có khả năng thực hiện các hoạt động kiểm soát hết sức phức tạp. Hằng ngày, nó nhận hàng triệu mã thông tin từ các cơ quan cảm giác truyền về rồi tích hợp chúng lại để định ra các đáp ứng thích hợp.

Đo lưu lượng máu não và tác động của hoạt động não bộ trên lưu lượng máu não

Chứng minh tác động của hoạt động thần kinh tại chỗ trên lưu lượng máu não bằng cách chỉ ra sự gia tăng đặc hiệu lưu lượng máu vùng chẩm ghi lại trên não một con mèo khi chiếu ánh sáng mạnh vào mắt nó trong một phút rưỡi.

Vai trò và chức năng của Protein huyết tương

Proteins huyết tương là một nguồn amio acid của mô, khi các mô cạn kiệt protein, các protein huyết tương có thể hoạt động như một nguồn thay thế nhanh chóng.

Một số rối loạn sinh lý thân nhiệt

Sốt là trạng thái tăng thân nhiệt xảy ra do điểm chuẩn bị nâng lên cao hơn bình thường. Khi đó, các đáp ứng tăng thân nhiệt xuất hiện và đưa thân nhiệt tăng lên bằng điểm chuẩn mới gây nên sốt.

Điều hòa lưu lượng máu bằng những thay đổi trong mạch máu mô

Sự tái tạo vật chất của mạch xảy ra để đáp ứng với nhu cầu của mô. Sự tái cấu trúc này xảy ra nhanh trong vòng vài ngày ở những động vật non. Nó cũng xảy ra nhanh ở những mô mới lớn như mô sẹo, mô ung thư.

Các tế bào tiết nhầy bề mặt dạ dày

Chất nhầy nhớt bao phủ biểu mô của dạ dày dưới dạng một lớp gel thường dày hơn 1 mm, do đó cung cấp lớp vỏ bọc bảo vệ quan trọng cho thành của dạ dày, cũng như góp phần bôi trơn để sự vận chuyển thức ăn được dễ dàng.

Tỷ lệ thay đổi hô hấp: thương số hô hấp

Khi O2 phản ứng với chất béo, một phần lớn của O2 kết hợp với các nguyên tử H+ từ các chất béo để tạo thành H2O thay vì CO2. Nói cách khác, khi chất béo được chuyển hóa.

Các yếu tố gây ra điện thế hoạt động

Sự khởi đầu của điện thế hoạt động cũng làm cho cổng điện thế của kênh kali mở chậm hơn một phần nhỏ của một phần nghìn giây sau khi các kênh natri mở.

Điều hòa bài tiết glucagon

Tầm quan trọng của kích thích axit amin tiết glucagon là glucagon sau đó thúc đẩy chuyển đổi nhanh chóng của các axit amin thành glucose, do đó thậm chí làm tăng glucose có trong các mô.

Cung lượng tim: chỉ số khi nghỉ ngơi và khi gắng sức

Cung lượng tim được điều chỉnh suốt cuộc đời thông qua chuyển hóa cơ bản chung của cơ thể. Vì vậy chỉ số cung lượng tim giảm biểu thị sự giảm hoạt động thể chất hay giảm khối cơ tương ứng với tuổi.

Các hormone hoạt động chủ yếu trên bộ máy gen của tế bào

Các hormone hoạt động chủ yếu trên bộ máy gen của tế bào, các hormone steroid làm tăng tổng hợp protein, các hormone tuyến giáp làm tăng quá trình phiên mã gen trong nhân tế bào.

Phản xạ duỗi chéo: phối hợp vận động của các chi

Các tín hiệu thần kinh cảm giác vào tủy sống thì bắt chéo sang bên đối diện để kích thích duỗi cơ. Vì phản xạ duỗi chéo chỉ bắt đầu từ 200 - 500 ms sau khi kích thích đau xảy ra.

Glycogen được dự trữ tại gan và cơ trong cơ thể

Tất cả các tế bào đều có khả năng dự trữ glycogen, một số tế bào có khả năng dự trữ số lượng lớn hơn, tế bào gan dự trữ 5 đến 8% khối lượng dưới dạng glycogen, và tế bào cơ, có thể dự trữ 1 đến 3% glycogen.

Các con đường thần kinh để sợi cảm giác đi tới vỏ não vận động

Khi tiếp nhận các thông tin cảm giác, vỏ não vận động hoạt động cùng với nhân nền và tiểu não kích hoạt một chuỗi đáp ứng vận động phù hợp. Các con đường quan trọng để các sợi cảm giác tới vỏ não vận động.