- Trang chủ
- Sách y học
- Sách điện tâm đồ
- Cách xác định trục điện tim (điện tâm đồ)
Cách xác định trục điện tim (điện tâm đồ)
Nhìn trên điện tâm đồ, tìm trong 6 chuyển đạo ngoại biên, xem phức bộ QRS ở chuyển đạo nào có biên độ nhỏ nhất, và gọi nó là chuyển đạo A.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Như ở phần một đã nói, trục điện tim (ÂQRS) là véc tơ tổng hợp mô tả quá trình khử cực của tim. Bình thường, nó có hướng gần với trục giải phẫu của tim nhưng trong một số trường hợp bệnh lí, hướng của trục đó bị lệch đi, và đó là một dấu hiệu rất quan trọng phục vụ tốt cho nhiều chẩn đoán. Vì thế, khi đọc điện tâm đồ bao giờ ta cũng phải tìm trục điện tim.
Có rất nhiều cách tìm trục điện tim. Nhưng theo kinh nghiệm của chúng tôi, có một phương pháp đạt mức chính xác khá cao (sai số góc α chỉ khoảng ± 50) mà lại rất tiện lợi. Đó là phương pháp ước lượng trục điện tim bằng tam trục kép Bayley như sau.
Tam trục kép Bayley
Để tìm trục điện tim, Bayley đem ghép 3 trục chuyển đạo của D1, D2, D3 lại thành một hệ thống 3 trục có gốc chung (tâm O) gọi là “Tam trục kép Bayley”.
Tam trục kép Bayley
Như vậy, tâm O sẽ chia 3 trục đó thành 3 “nửa trục dương” và 3 “nửa trục âm” tỏa ra thành 6 cái nan hoa cách đều nhau một góc 60 độ. Sau đó, ông lại ghép thêm 3 trục chuyển đạo của aVR, aVL, aVF vào đó thành một hệ thống 6 trục, gọi là tam trục kép Bayley. Như vậy, tâm O cũng sẽ chia 3 trục này thành 3 nửa trục dương và 3 nửa trục âm. Vì trục các chuyển đạo đơn cực chi là những đường phân giác của trục các chuyển đạo mẫu (xem chương một) nên ta thấy: 300.
Chúng vuông góc với nhau từng đôi một lập thành những cặp chuyển đạo như sau:
Cặp 1: D1 và aVF.
Cặp 2: D2 và aVL.
Cặp 3: D3 và aVR.
Vòng tròn đánh mốc
Để đánh mốc phương hướng của các nửa trục và trục điện tim, người ta vẽ xung quanh tam trục kép một vòng tròn tâm O và gọi điểm 3 giờ của vòng tròn đó là điểm 00, các điểm của nửa dưới vòng tròn được ghi độ dương và đánh mốc lần lượt theo chiều kim đồng hồ xuất phát từ điểm 00 cho đến +1800. Các điểm của nửa trên vòng tròn được ghi độ âm và đánh mốc ngược chiều kim đồng hồ từ 00 đến -1800. Riêng nửa trục dương của D1 còn được gọi là trục 0 độ và dùng để làm gốc tính góc α của trục điện tim.
Vòng tròn đánh mốc
Luận thuyết hình chiếu
Cách tìm trục điện tim dựa trên cơ sở luận thuyết hình chiếu của Einthoven.
Theo luận thuyết này thì độ dài của véc tơ hình chiếu của trục điện tim lên trục của một chuyển đạo nào đó tỷ lệ với biên độ ÂQRS của chuyển đạo đó. Như thế, khi ÂQRS càng gần vuông góc với chuyển đạo nào thì biên độ QRS của chuyển đạo đó càng nhỏ; ngược lại khi ÂQRS càng gần song song (trùng) với chuyển đạo nào thì biên độ QRS của nó càng lớn tương đối so với các chuyển đạo khác tuy rằng điều này cũng còn phụ thuộc vào một vài điều kiện khác nữa. Cần chú ý là “biên độ QRS” ở đây là “biên độ tương đối” (xem mục “Phức bộ QRS”) chứ không phải biên độ tuyệt đối, cho nên khi phức bộ QRS của một chuyển đạo nào đó có hai sóng R và S với biên độ cùng lớn nhưng lại gần bằng nhau thì cũng coi như chuyển đạo đó có biên độ nhỏ (bằng 0 hay gần 0), nghĩa là ÂQRS gần vuông góc với chuyển đạo đó.
Tìm trục điện tim, góc α
Gồm 3 giai đoạn:
Nhìn trên điện tâm đồ, tìm trong 6 chuyển đạo ngoại biên xem phức bộ QRS ở chuyển đạo nào có biên độ nhỏ nhất và gọi nó là “chuyển đạo A”.
Như vậy, ÂQRS mà ta định tìm sẽ gần vuông góc với chuyển đạo A, nghĩa là gần trùng với chuyển đạo “cùng cặp” với nó mà ta gọi là “chuyển đạo B”.
Nhìn vào phức bộ QRS của chuyển đạo B xem biên độ của nó là dương hay âm.
Nếu là dương thì ÂQRS sẽ trùng với nửa trục dương của chuyển đạo B, còn nếu là âm thì ÂQRS sẽ trùng với nửa trục âm của chuyển đạo này.
Muốn chính xác hơn nữa, ta có thể làm thêm một động tác điều chỉnh: Nhìn lại phức bộ QRS của chuyển đạo A, nếu có:
Hơi dương tính thì ta phải điều chỉnh mũi của ÂQRS độ 10 – 15 0 (tùy theo dương nhiều hay ít) trên vòng tròn về phía nửa trục dương của chuyển đạo A.
Hơi âm tính thì phải điều chỉnh mũi của ÂQRS cũng độ 10 – 150 về phía nửa trục âm của chuyển đạo A.
Bằng 0: Ta không điều chỉnh gì.
Bài viết cùng chuyên mục
Các ảnh hưởng bên ngoài khi làm điện tâm đồ
Các đoạn gấp khúc hay rung động từng chỗ của đường đồng điện, có chỗ chênh hẳn ra khỏi đường đồng điện hoặc đường đồng điện uốn lượn (nhất là khi ghi chuyển đạo thực quản) đều là do bệnh nhân cử động nhẹ, hay thở, hay điện cực di động trong khi ghi.
Hình ảnh nhịp xoang trên điện tâm đồ
Không đều, ta gọi là loạn nhịp xoang, thường gặp ở trẻ em (do hô hấp), loạn trương lực thần kinh thực vật. Đặc điểm chung của các loại nhịp xoang là tần số và nhịp điệu của chúng bị biến đổi khi gắng sức, cảm xúc, ấn mắt, hô hấp, tiêm atropin.
Hình ảnh chủ nhịp lưu động trên điện tâm đồ
P biến đổi hình dạng, từ dương sang hai pha, có móc rồi âm hay ngược lại, trong khi đó PQ và tần số tim cũng hơi biến đổi theo, còn QRST thì không biến đổi gì cả.
Phức bộ QRS bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Nếu phức bộ QRS có nhiều sóng dương, thì lấy hình chiếu của đỉnh sóng dương cuối cùng, thời gian đó thường được đo ở V1, V2, V5, V6.
Hình ảnh tăng gánh thất trái, thất phải và hai thất trên điện tâm đồ
Ở nhiều ca, tất cả các chuyển đạo đều có STT trái hướng với QRS, thí dụ ở V5, V6 có QRS dương, ta thấy ST chênh xuống và T âm, còn ở V1, V2 thì ngược lại.
Các bước đọc điện tâm đồ
Kiểm tra kỹ thuật ghi điện tâm đồ, phát hiện ghi sai, ảnh hưởng tạp, milivôn lấy đúng 1cm hay không? Tốc độ ghi bao nhiêu? Nghĩa là các đường kẻ dọc cách nhau bao nhiêu phần trăm giây.
Cách đặt các chuyển đạo điện tâm đồ
Các trục chuyển đạo RL, RF, và LF của D1, D2, D3 lập thành 3 cạnh của một hình tam giác, có thể coi như tam giác đều với mỗi góc bằng 600 gọi là tam giác Einthoven.
Hình ảnh bệnh động mạch vành trên điện tâm đồ
ST chênh xuống, thẳng đuỗn, đây là tổn thương dưới nội tâm mạc, thường có trong chứng nhồi máu dưới nội tâm mạc hay chứng đau thắt ngực.
Hình ảnh cơn đau thắt ngực, nghiệm pháp gắng sức trên điện tâm đồ
Hình ảnh thiếu máu, tổn thương khu trú, ở một vài chuyển đạo nào đó, và biến đổi nhanh chóng, ví dụ từ hình thái dưới nội tâm mạc sang hình thái dưới thượng tâm mạc.
Các tư thế điện học của tim trên điện tâm đồ
Khi tim xoay theo lối tư thế nằm nhưng không nằm hẳn, mà mới nửa chừng thì aVL cũng dương, nhưng aVF thì chưa âm và biên độ tương đối chỉ giảm xuống gần 0.
Phương pháp ghi và định chuẩn điện tâm đồ
Người ta in sẵn lên giấy những đường kẻ ngang cách nhau 1mm, trước khi cho dòng điện tim chạy vào máy, người ta phóng vào một dòng điện 1mv và vặn nút điều chỉnh.
Tính tần số tim trên điện tâm đồ
Khi nhịp tim không đều, ta phải chọn vài khoảng RR dài ngắn khác nhau mà tính lấy trung bình cộng rồi hãy tính ra tần số tim trung bình.
Nhĩ đồ và thất đồ trên điện tâm đồ
Khi nhĩ tái cực, nó phát ra một dòng điện ghi lên máy bằng một sóng âm nhỏ gọi là sóng Ta (auricular T), nhưng ngay lúc này cũng xuất hiện khử cực thất (QRS với điện thế mạnh hơn nhiều nên trên điện tâm đồ thông thường ta không nhìn thấy được sóng Ta.
Tư thế điện học của tim bình thường và bệnh lý
Khi tim nằm, trục trái quá mạnh, với R1 cao, S2, S3 sâu (đỉnh của R1, S2, S3 chiếu đúng vào nhau khi ghi đồng thời) thì thường là dày và tăng gánh thất trái.
Khoảng QT bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Khi có sóng U quá cao chồng tiếp vào sườn của T, người ta dễ lầm U là phần đuôi của T và đo QT lầm sang QU nghĩa là xác định QT dài ra một cách sai lầm.
Hình ảnh block nhánh phải, nhánh trái trên điện tâm đồ
Trước khi chẩn đoán là Block nhánh, ta phải xác nhận là điện tâm đồ có xung động từ nhĩ truyền xuống, thí dụ có nhịp xoang, nhịp nút, cuồng động nhĩ, rung nhĩ.
Hình ảnh tăng gánh nhĩ trái, nhĩ phải và hai nhĩ trên điện tâm đồ
Tăng gánh hai nhĩ, hay gặp nhất trong bệnh van hai lá, ba lá, bao gồm các triệu chứng của dày nhĩ trái, và dày nhĩ phải phối hợp thành rất nhiều hình thái.
Điện trường và đặt các chuyển đạo điện tâm đồ
Cơ thể con người là một môi trường dẫn điện; vì thế, dòng điện do tim phát ra được dẫn truyền khắp cơ thể, ra tới da, biến cơ thể thành một điện trường của tim.
Sóng T bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Tuy nhiên, đến V5, V6, T có thể hơi thấp xuống do điện cực đã xa tim hơn, ở các chuyển đạo thực quản cao, và trong buồng tim, sóng T đều âm.
Quá trình điện học và hình thành điện tâm đồ
Khi tim ở trạng thái nghỉ, không có dòng điện tim nào qua máy, và bút sẽ chỉ ghi lên giấy một đường thẳng ngang, ta gọi đó là đường đồng điện.
Hình ảnh nhịp bộ nối, thoát bộ nối và phân ly nhĩ thất
P và QRS không có liên hệ gì với nhau, P lúc thì đứng trước, lúc thì đứng sau, lúc thì chồng lên QRS, nhưng các khoảng PP vẫn bằng nhau, cả các khoảng RR cũng thế.
Đoạn ST bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Nói chung, ST không uốn cong mà đi thẳng và tiếp vào T một cách mềm mại, cũng không bao giờ đi dốc xuống mà chỉ đi ngang hoặc hơi dốc lên.
Khoảng PQ bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Ở trẻ em, PQ hơi ngắn hơn, thí dụ ở trẻ 7 tuổi, PQ tối đa là 0,18s, tối thiểu là 0,10s, nhưng tần số tim càng nhanh thì PQ càng bị rút ngắn.
Hình ảnh block xoang nhĩ trên điện tâm đồ
Bỗng mất hẳn đi một hay hai nhát bóp với tất cả các sóng PQRST của nó, đo thời gian của khoảng ngừng tim, ta sẽ thấy nó gấp hai hay ba lần một khoảng PP cơ sở.
Hình ảnh cuồng động nhĩ trên điện tâm đồ
Các sóng P’ đó có tần số khoảng 300 mỗi phút, biên độ lớn hơn sóng P bình thường, nhất là ở D2, D3 và aVF.