Dobutrex

2011-11-11 03:05 PM

Dùng Dobutrex khi cần làm tăng sức co bóp cơ tim để điều trị tình trạng giảm tưới máu do giảm cung lượng tim, dẫn đến không đáp ứng đủ nhu cầu tuần hoàn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thuốc tiêm 250 mg: Hộp 1 lọ.

Độc bảng A.

Thành phần

Mỗi 1 lọ: Dobutamine hydrochloride 250mg.

Dược lực học

Dobutrex có thành phần là dobutamine hydrochloride có tên hóa học là (+/-)-4-[2-[ [3-(phydroxyphenyl-1-methylpropy] amino]ethyl]-pyrocatechol hydrochloride. Đây là một catecholamine tổng hợp có tác dụng chủ vận trên các receptor a-1, b-1, và b-2. Dobutrex là thuốc có tác dụng trực tiếp trên sự co sợi cơ tim, do chủ yếu kích thích các receptor adrenergic ở tim; tác dụng ở mức độ vừa phải trên : sự điều nhịp, sự tăng huyết áp, tính gây loạn nhịp và tác dụng giãn mạch. Ngược lại với dopamine, thuốc không làm tăng tiết norepinephrine (noradrenaline), và tác động của thuốc không phụ thuộc vào kho dự trữ norepinephrine ở tim. Nghiên cứu trên súc vật, so với isoproterenol, tác dụng trên sự co sợi cơ tim của Dobutrex ít gây tăng nhịp tim và ít làm giảm sự đề kháng của mạch ngoại biên hơn. Ở người, Dobutrex làm tăng thể tích mỗi nhát bóp và cung lượng tim, làm giảm áp lực đổ đầy tâm thất, giảm sức đề kháng của mao mạch phổi và của mạch toàn thân. Đường cong biểu diễn chức năng của tâm thất thay đổi nhô cao hơn và lệch về phía trái, phản ánh sự gia tăng sức co bóp cơ tim.

Nhịp tim không tăng nhiều ở liều thông thường của Dobutrex ; tuy nhiên với liều cao (thường với liều lớn hơn 10 mg/(kg.phút)) có thể gây tăng nhịp tim đáng kể.

Huyết áp động mạch thường không thay đổi khi dùng Dobutrex, vì tác dụng tăng cung lượng tim được cân bằng đồng thời bởi sự giảm sức đề kháng ngoại biên. Đã có những báo cáo về sự tăng và hạ huyết áp động mạch. Người bệnh có tiền sử cao huyết áp, ngay cả những lúc có huyết áp bình thường hình như đáp ứng về huyết áp cũng nhạy hơn.

Ở súc vật, Dobutrex cải thiện được tình trạng co mạch máu phổi do thiếu oxy. Kết quả là có thể làm tăng tưới máu ở các vùng kém thông khí. Ở một vài bệnh nhân, tác động này của Dobutrex có thể làm giảm độ bão hòa oxygen trong máu động mạch, nhưng ở mức độ k m hơn nếu so với dopamine hoặc isoproterenol ; ở những bệnh nhân này, do Dobutrex làm tăng cung lượng tim, nên k o theo làm tăng vận chuyển oxygen. Dobutrex có thể ngăn ngừa hoặc hạn chế phần nào tình trạng giảm cung lượng tim ở bệnh nhân thở máy với áp lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP).

Dobutrex không có tác dụng trên receptor của dopamine, do đó không có tác dụng chọn lọc làm giãn các mao mạch thận và nội tạng. Dobutrex có thể cải thiện lưu lượng máu đến thận, tốc độ lọc cầu thận, lưu lượng nước tiểu và sự bài tiết natri bằng cách gia tăng cung lượng tim và làm giãn mạch không chọn lọc.

Dobutrex cũng làm tăng co bóp sợi cơ tim ở trẻ em, tuy nhiên đáp ứng huyết động học hơi khác so với ở người lớn. Mặc dầu cung lượng tim tăng ở trẻ em, nhưng đề kháng mạch toàn thân và áp lực đổ đầy thất có khuynh hướng ít giảm hơn, trong khi nhịp tim và huyết áp động mạch lại tăng nhiều hơn so với ở người lớn. Áp lực động mạch phổi bít có thể tăng khi truyền Dobutrex ở trẻ em dưới 12 tháng tuổi.

Dobutrex làm tăng dẫn truyền nhĩ-thất trong những nghiên cứu về điện sinh lý ở người, và ở người bệnh bị rung nhĩ.

Giống như tất cả các thuốc có tác dụng trên sự co sợi cơ tim, Dobutrex làm tăng nhu cầu tiêu thụ oxy ở cơ tim. Dobutrex cũng làm tăng lưu lượng máu mạch vành và tăng cung cấp oxy cho cơ tim. Nhu cầu oxy thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm:

Thay đổi thể tích tâm thất, kết quả là xác định được mức độ áp lực thành tâm thất cần để tạo nên áp lực trong tâm thất ở thời kỳ tâm thu.

Thay đổi hậu tải, thường tương ứng với các thay đổi trong huyết áp tâm thu.

Những thay đổi về nhịp tim.

Trên người bệnh suy tim và giãn tim sử dụng thuốc có tác dụng làm tăng co sợi cơ tim, sẽ làm giảm đường kính tâm thất, nhu cầu oxy có thể hơi gia tăng hoặc không gia tăng chút nào, kết quả là hậu tải và nhịp tim không gia tăng đáng kể. Nói chung, Dobutrex không gây mất cân bằng giữa cung và cầu oxy cả ở súc vật thử nghiệm và ở người bệnh tim. Sự cung cấp oxy thường vượt hơn sự gia tăng tiêu thụ oxy khi truyền Dobutrex, do đó độ bão hòa oxy trong máu xoang mạch vành tăng lên. Tỷ số chiết xuất acid lactic ở động mạch-tĩnh mạch, một bằng chứng gián tiếp của sự chuyển hóa hiếu khí, thường ổn định trong suốt quá trình truyền Dobutrex. Trong một vài trường hợp, độ chiết xuất lactate trong cơ tim có thể giảm. Ở một vài bệnh nhân có thấy tăng sản lactate, điều này đặc biệt xảy ra khi nhịp tim và/hoặc huyết áp động mạch tăng quá mức trong lúc truyền Dobutrex hoặc khi sự suy chức năng tâm thất không gặp trước khi dùng thuốc.

Ở người bệnh có cơn đau thắt ngực và không suy tim, truyền Dobutrex có tác dụng giống như vận động gắng sức, nhu cầu oxy của cơ tim tăng vượt quá khả năng cung cấp oxy của mạch vành, do đó sẽ có những biểu hiệu lâm sàng của chứng thiếu máu cơ tim có hồi phục. Những triệu chứng này gồm cơn đau thắt ngực, ST chênh xuống, khiếm khuyết tưới máu khi chụp với nhấp nhánh đồ thallium, và thành tim có những co bóp mới bất thường. Ở người bệnh nhồi máu cơ tim cấp được điều trị với Dobutrex trong 24 giờ, kích thước vùng nhồi máu không lan rộng, tỷ lệ và mức độ nguy hiểm của loạn nhịp thất không tăng, nếu so sánh với các bệnh nhân tương tự không được điều trị với Dobutrex. Ở súc vật, dùng Dobutrex ngay sau khi cột thắt động mạch vành, diện tích vùng nhồi máu sẽ thu nhỏ lại, nếu so sánh với nhóm súc vật chứng chỉ sử dụng dung dịch muối hoặc dopamine. Ở một nhóm súc vật khác có nhồi máu cơ tim thực nghiệm được truyền Dobutrex với những liều lượng làm tăng nhịp tim và tăng co bóp cơ tim, trên điện tâm đồ có những dấu hiệu gia tăng thiếu máu cơ tim. Những nghiên cứu gần đây trên súc vật cho thấy chức năng của tim k m đi, và khả năng lan rộng của những tổn thương cơ tim trên thực nghiệm do những thuốc làm co sợi cơ tim, kể cả Dobutrex, là do tác dụng làm tăng nhịp tim hơn là tác dụng gây tăng sức co bóp cơ tim. Khi thuốc được truyền với những liều lượng gây tăng sức co bóp cơ tim đáng kể, mà ít gây tăng nhịp tim, thì sẽ không có bằng chứng tổn thương thêm cho cơ tim.

Truyền Dobutrex với tốc độ dưới 1 giờ ở người bệnh suy tim sung huyết sẽ làm tăng cung lượng tim và giảm áp lực động mạch phổi bít, tuy vậy, sự cải thiện về huyết động học không kèm theo gia tăng sự dung nạp vận động. Ngược lại, khi thời gian truyền k o dài hơn (72 giờ), hoặc truyền lặp đi lặp lại với những khoảng cách đều nhau trong vòng vài tuần hay vài tháng sẽ cải thiện được tình trạng lâm sàng.

Chưa rõ cơ chế sự cải thiện chức năng tâm thất khi truyền Dobutrex k o dài hay gián đoạn. Tuy nhiên, trên những nghiên cứu truyền Dobutrex kéo dài thực hiện ở người, đã ghi nhận có các thay đổi về siêu cấu trúc ty thể và về hóa sinh, có thể đây là cơ bản của sự cải thiện lâu dài. Dobutrex đã được dùng phối hợp với dopamine. Nói chung, cung lượng tim cũng không tăng nhiều hơn nếu dùng liều tương đương Dobutrex đơn thuần. Tuy nhiên, sự phối hợp này đã mang lại kết quả sau:

Làm tăng huyết áp động mạch toàn thân (có thể có lợi cho người bệnh huyết áp thấp).

Gia tăng lưu lượng máu đến thận, lưu lượng nước tiểu và sự bài tiết natri.

Ngăn ngừa áp lực đổ đầy thất tăng, thường xảy ra khi dùng dopamine đơn thuần, vì vậy làm giảm nguy cơ phù phổi và sung huyết phổi, nhất là ở người bệnh suy chức năng thất trái. Dobutrex cũng đã được phối hợp với những thuốc giãn mạch khác như nitroglycerin hoặc nitroprusside, đặc biệt cho những người bệnh thiếu máu cơ tim. Sự phối hợp này có thể giúp tăng cung lượng tim, và làm giảm sức đề kháng của hệ mạch, và giảm áp lực đổ đầy thất mà tác dụng đã thấy khi dùng riêng rẽ một trong hai loại thuốc trên. Nhịp tim - huyết áp không thay đổi hoặc có hơi tăng khi dùng phối hợp Dobutrex và một loại thuốc giãn mạch. Dobutrex là chất chủ vận b-adrenergic. Do đó, tác dụng của thuốc có thể bị đối kháng bởi những chất đối kháng trên receptor b-adrenergic. Trong quá trình điều trị bằng những chất đối kháng beta, dùng kèm Dobutrex ở liều thấp có biểu hiện tác động của a-adrenergic ở mức độ khác nhau, như co mạch. Do tương tác thuốc, Dobutrex và các thuốc đối kháng sẽ cạnh tranh với nhau trên cùng receptor beta. Sự cạnh tranh này có tính hồi phục, do đó, nếu dùng Dobutrex với liều cao hơn sẽ có tác động cạnh tranh mạnh hơn chống lại ảnh hưởng của các thuốc đối kháng ở receptor β-adrenergic.

Dược động học

Dobutrex bắt đầu tác dụng sau 1-2 phút, và dù truyền với bất kỳ vận tốc nào, nồng độ vững bền trong huyết tương và tác dụng tối đa cũng đạt được sau 10 phút. Nồng độ ổn định trong huyết tương tỷ lệ thuận với tốc độ truyền dịch. Ở người bệnh bị suy tim sung huyết, nếu truyền với tốc độ 5 mg/(kg.phút), nồng độ trung bình trong huyết tương sẽ đạt được khoảng 100 nanogam/mL.

Độ thanh thải trong huyết tương ở người lớn là 2,4 L/phút/m2, thể tích phân phối khoảng 20% thể trọng, và thời gian bán thải trong huyết tương dưới 3 phút. Chuyển hóa chủ yếu qua methyl hóa, sau đó là phản ứng liên hợp. Các chất chuyển hóa được thải trừ qua thận và mật. Trong nước tiểu, chất chuyển hóa chủ yếu gồm các chất liên hợp của dobutamine và 3-O-methyl dobutamine. Dẫn xuất 3-O-methyl không còn hoạt tính sinh học.

Khi truyền liên tục kéo dài, Dobutrex sẽ chỉ dung nạp được một phần, và trở thành có { nghĩa thống kê sau khi truyền 72 giờ. Ở người bệnh suy tim ứ huyết, ảnh hưởng của Dobutrex trên cung lượng tim ở thời điểm giờ thứ 72 đạt được hơn 70% so với thời điểm ở cuối giờ thứ 2 nếu truyền thuốc với tốc độ đều đặn. Hiện tượng này có thể do giảm số lượng receptor badrenergic.

Trên súc vật, mặc dầu nồng độ catecholamine có suy giảm tại các sy-náp thần kinh do tác dụng của reserpine hoặc thuốc chống trầm cảm 3 vòng, nhưng tác động của Dobutrex vẫn không thay đổi; Dobutrex có tác động trực tiếp, và hiệu quả của thuốc này không phụ thuộc vào các cơ chế tiền sy-náp.

Chỉ định

Dùng Dobutrex khi cần làm tăng sức co bóp cơ tim để điều trị tình trạng giảm tưới máu do giảm cung lượng tim, dẫn đến không đáp ứng đủ nhu cầu tuần hoàn. Cũng dùng Dobutrex khi cần tăng sức co bóp cơ tim để điều trị sự gia tăng bất thường áp lực đổ đầy thất, có nguy cơ gây sung huyết phổi hay phù phổi. Những nguyên nhân có thể dẫn đến những tình trạng giảm tưới máu bao gồm:

Nguyên nhân do tim

Suy tim cấp:

Nhồi máu cơ tim cấp.

Choáng do nguyên nhân tim.

Sau phẫu thuật tim.

Dùng quá liều thuốc giảm co bóp cơ tim như thuốc ức chế receptor b-adrenergic.

Suy tim mạn:

Đợt suy tim mất bù cấp của suy tim ứ huyết mạn tính.

Cần tăng co bóp cơ tim tạm thời trong suy tim mạn đợt tiến triển, Dobutrex được xem như là loại thuốc điều trị hỗ trợ dùng đồng thời với các thuốc làm tăng co bóp cơ tim dạng uống thường dùng, thuốc giãn mạch toàn thân và thuốc lợi niệu.

Nguyên nhân không phải do tim

Tình trạng giảm tưới máu cấp thứ phát sau chấn thương, phẫu thuật, nhiễm khuẩn, hoặc giảm thể tích máu với chỉ số huyết áp động mạch trung bình trên 70 mmHg, và áp lực mao mạch phổi bít lớn hơn hoặc bằng 18 mmHg, mà không có đáp ứng hữu hiệu sau khi đã bù thể tích tuần hoàn và làm tăng áp lực đổ đầy thất.

Giảm cung lượng tim thứ phát khi bệnh nhân thở máy với áp lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP). Để chẩn đoán bệnh mạch vành, có thể dùng Dobutrex thay thế cho thử nghiệm gắng sức. Nếu dùng Dobutrex cho mục đích này, phải thông báo cho người bệnh biết về mối nguy hiểm có thể xảy ra liên quan đến thử nghiệm này, và bắt buộc phải được theo dõi sát như khi làm các thử nghiệm chuẩn mực gắng sức, bao gồm cả việc theo dõi liên tục điện tâm đồ.

Chống chỉ định

Không dùng cho người bệnh trước đó đã có biểu hiện quá mẫn cảm với Dobutrex.

Chú ý

Tăng nhịp tim hoặc tăng huyết áp

Dobutrex có thể gây tăng nhịp tim hoặc tăng huyết áp, nhất là huyết áp tâm thu. Nghiên cứu lâm sàng cho thấy khoảng 10% bệnh nhân có nhịp tim tăng khoảng 30 nhịp/phút hoặc hơn nữa, và khoảng 7,5% bệnh nhân có huyết áp tâm thu tăng thêm 50 mmHg hoặc hơn nữa. Nếu giảm liều, thường các tác dụng này cũng sẽ giảm tức khắc. Những người bệnh bị tăng huyết áp trước đó dễ có đáp ứng mạnh với thuốc hơn.

Tăng dẫn truyền nhĩ-thất

Vì Dobutrex làm tăng dẫn truyền nhĩ-thất, nên những bệnh nhân có cuồng nhĩ hoặc rung nhĩ có thể có đáp ứng thất nhanh.

 

Loạn nhịp kiểu nhanh thất

Dobutrex có thể kích thích các ổ phát nhịp lạc chỗ ở tâm thất; nhưng hiếm khi gây nhịp nhanh thất hoặc rung thất.

 

Giảm khả năng đổ đầy thất và khả năng bơm máu

Những thuốc làm tăng co bóp sợi cơ tim, kể cả Dobutrex, không cải thiện khả năng bơm máu của tâm thất trong trường hợp có tắc nghẽn cơ học dòng chảy của máu vào hoặc chảy ra khỏi tim, hoặc cả hai. Nếu tính đàn hồi của cơ tim giảm nhiều, tác dụng tăng co bóp của cơ tim cũng không có hiệu quả. Những tình trạng trên là do nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim, hẹp van động mạch chủ, hẹp dưới động mạch chủ phì đại vô căn. Ưu điểm của tác dụng làm tăng co cơ tim có thể thấy ở một số trường hợp bệnh nhân có tim giãn, hoặc sử dụng quá nhiều thuốc đối kháng ở receptor b-adrenergic.

Quá mẫn cảm

Những phản ứng sau đây được coi là quá mẫn cảm khi dùng Dobutrex, nhưng hiếm khi xảy ra : mẩn đỏ ở da, sốt, tăng bạch cầu ái toan và co thắt phế quản.

Dobutrex dạng dung dịch chứa sodium bisulfite, chất sulfite này có thể gây phản ứng dị ứng gồm các triệu chứng phản vệ, và những đợt hen từ nhẹ cho đến nặng ở một số người bệnh nhạy cảm với thuốc. Tần số nhạy cảm với sulfite trong cộng đồng đến nay chưa rõ, có lẽ là thấp.

Nhạy cảm với sulfite thường gặp ở những người bị hen hơn là những người không bị hen.

Thận trọng

Lưu ý chung

Trong khi dùng Dobutrex cũng như khi đang dùng các thuốc catecholamine dạng tiêm khác, cần theo dõi cẩn thận nhịp tim, huyết áp và tốc độ truyền. Nên theo dõi trên điện tâm đồ từ khi bắt đầu truyền cho đến khi có đáp ứng ổn định.

Nên điều chỉnh tình trạng giảm khối lượng tuần hoàn trước khi dùng Dobutrex.

Tác dụng của Dobutrex có thể bị giảm nếu dùng kèm thuốc đối kháng ở receptor β-adrenergic. Trong những trường hợp như vậy, tác dụng alpha của Dobutrex không bị ức chế, sẽ gây nên co mạch ngoại biên và tăng huyết áp. Trái lại, nếu ức chế receptor a-adrenergic, thì các tác dụng b1 và β-2 sẽ chiếm ưu thế, và kết quả là nhịp tim nhanh lên và giãn mạch . - Dobutamine, cũng như các chất chủ vận khác tác dụng trên receptor β-2, có thể làm giảm nhẹ nồng độ kali máu, nhưng hiếm khi hạ kali máu. Dù sao, cũng nên theo dõi nồng độ kali máu. Sử dụng Dobutrex khi suy tim biến chứng của nhồi máu cơ tim cấp : Việc điều trị suy tim và làm giảm thể tích tim sẽ giúp giảm tiêu thụ oxy của cơ tim, nhưng nếu dùng bất kỳ một thuốc tăng co bóp cơ tim nào cũng có thể làm tăng nhu cầu oxy và làm tăng kích thước ổ nhồi máu do tăng thiếu máu. Kinh nghiệm lâm sàng về sử dụng Dobutrex trong nhồi máu cơ tim cấp cho thấy khi dùng Dobutrex với liều không gây tăng quá mức nhịp tim và huyết áp, thì sẽ không gây một tác dụng phụ nào trên cơ tim. Nên điều chỉnh liều lượng để ngăn ngừa tăng nhịp tim và tăng quá mức huyết áp tâm thu.

Sử dụng trong chỉ định hạ huyết áp: Khi hạ huyết áp do nguyên nhân giảm cung lượng tim và đồng thời có kèm tăng áp lực đổ đầy thất, thì truyền Dobutrex có thể giúp duy trì được huyết áp.

Khi điều trị tình trạng giảm tưới máu cấp tính bằng bù dịch đầy đủ biểu hiện qua áp lực mao mạch phổi bít tăng, hoặc áp lực tĩnh mạch trung tâm tăng, nhưng cung lượng tim và huyết áp vẫn không tăng, thì Dobutrex có thể giúp cải thiện sức co bóp cơ tim và khôi phục lại huyết áp. Nói chung, khi huyết áp động mạch trung bình thấp hơn 70 mmHg mà áp lực đổ đầy thất không tăng, thì có thể do giảm khối lượng tuần hoàn, và cần phải truyền bù dịch với khối lượng thích hợp trước khi dùng Dobutrex.

Nếu huyết áp vẫn thấp và có khuynh hướng giảm trong khi dùng Dobutrex, mặc dầu cung lượng tim và áp lực đổ đầy thất đã đủ, thì nên x t đến khả năng có thể chỉ định dùng kèm các thuốc co mạch ngoại biên như dopamine hoặc norepinephrine (noradrenaline). Sử dụng trong nhi khoa : Dobutrex được chỉ định ở trẻ em có tình trạng giảm tưới máu, do suy tim mất bù, phẫu thuật tim, choáng tim và choáng nhiễm khuẩn. Ở người lớn so với trẻ em, tác động về huyết động học của Dobutrex khác nhau về số lượng lẫn chất lượng (xin đọc phần Dược động học). Ở trẻ em, tác dụng làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp dễ gặp hơn và nhạy hơn ở người lớn. Áp lực động mạch phổi bít có thể không giảm ở trẻ em, hoặc cũng có thể tăng, nhất là ở nhũ nhi. Dùng Dobutrex ở trẻ em phải theo dõi thật sát, và luôn ghi nhớ những đặc điểm dược động học này.

Lúc có thai

Những nghiên cứu về sinh sản trên chuột và thỏ không thấy có bằng chứng tổn hại khả năng sinh sản, nguy hiểm cho bào thai hoặc gây quái thai do Dobutrex. Do không có đủ dữ liệu nghiên cứu trên người mang thai, và do những thử nghiệm về tác động của thuốc trên khả năng sinh sản của động vật không cho phép suy diễn ra kết quả đáp ứng trên người, nên không dùng Dobutrex trong thai kỳ, trừ khi lợi ích của việc dùng thuốc đã quá rõ rệt.

Tương tác

Không có thông báo rõ ràng về tương tác thuốc trong những nghiên cứu lâm sàng về kết hợp Dobutrex với những thuốc khác, bao gồm những dẫn xuất digitalis, furosemide, spironolactone, lidocaine, nitroglycerin, nitroprusside, isosorbide dinitrate, morphine, atropine, heparin, protamine, potassium chloride, acid folic và acetaminophen. Các tương tác dược động học với dopamine và các thuốc giãn mạch đã được mô tả trong phần Dược động học.

Tác dụng phụ

Tăng nhịp tim, huyết áp và ngoại tâm thu thất : Huyết áp tâm thu tăng thêm 10-20 mmHg, và nhịp tim tăng thêm 5-15 nhịp/phút được ghi nhận ở nhiều bệnh nhân (xin đọc phần Chú { đề phòng-phần tăng nhịp tim hoặc tăng huyết áp). Khoảng 5% bệnh nhân có ngoại tâm thu thất khi dùng Dobutrex. Những tác dụng ngoại { này thường phụ thuộc vào liều dùng. Hạ huyết áp : Đôi khi có giảm đột ngột huyết áp khi dùng dobutamine. Giảm liều hay ngừng thuốc có thể nhanh chóng đưa huyết áp về trị số ban đầu. Tuy nhiên, một số trường hợp cần phải xử trí, và sự hồi phục có thể không đáp ứng ngay.

Phản ứng tại nơi truyền: Đôi khi viêm tĩnh mạch. Có khi viêm tại chỗ do vô ý lệch đường truyền.

Những tác dụng ngoại ý ít gặp khác: 1-3% bệnh nhân có những tác dụng ngoại ý như buồn nôn, nhức đầu, đau ngực không đặc hiệu, hồi hộp và thở nông.

Cũng như những catecholamine khác, Dobutrex có thể làm giảm nhẹ nồng độ kali máu, hiếm khi gây hạ kali máu.

Tính an toàn khi dùng lâu dài: Không thấy có sự khác biệt khi dùng Dobutrex trong 72 giờ và trong thời gian ngắn. Có bằng chứng cho thấy chỉ có sự dung nạp thuốc một phần khi dùng Dobutrex sau 72 giờ, do đó cần dùng liều cao hơn để có hiệu quả như lúc khởi đầu.

Liều lượng

Ở phần lớn bệnh nhân, để tăng cung lượng tim, tốc độ truyền cần khoảng từ 2,5 tới 10 mg/(kg.phút). Thông thường, liều cần để cải thiện tình trạng huyết động hữu hiệu là 20 mg/(kg.phút). Rất hiếm khi cần đến liều 40 mg/(kg.phút).

Tốc độ và thời gian truyền nên điều chỉnh tùy theo đáp ứng của người bệnh, dựa vào những yếu tố lâm sàng sau: Các thông số về huyết động học như tần số tim, kiểu nhịp tim, huyết áp động mạch, và nếu có thể được, đo cung lượng tim và áp lực đổ đầy tâm thất (áp lực tĩnh mạch trung tâm, mao mạch phổi bít và nhĩ trái), các dấu hiệu của sung huyết phổi, tình trạng tưới máu các cơ quan (theo dõi nước tiểu, nhiệt độ da và tri giác).

Đã dùng nồng độ lên đến 5 g/L ở người (250 mg/50 mL). Thể tích dịch truyền vào tùy thuộc vào nhu cầu của người bệnh.

Nên giảm liều Dobutrex dần dần hơn là ngừng đột ngột.

Cách dùng

Thời gian bán thải của Dobutrex ngắn, vậy nên dùng bằng đường truyền tĩnh mạch liên tục. Nồng độ thuốc trong huyết tương đạt ổn định trong vòng 10 phút sau khi truyền với tốc độ đều đặn, hoặc sau khi thay đổi tốc độ. Do đó, không cần dùng liều nạp, cũng như tiêm tĩnh mạch trực tiếp liều nạp.

Đơn vị để tính liều

Hầu hết các báo cáo về Dobutrex đều diễn tả liều lượng dựa trên thể trọng, thí dụ như (mg/kg.phút). Điều này rất có ích cho trẻ em và trẻ sơ sinh hơn là cho người lớn. Ở người lớn, thể trọng không ảnh hưởng đáng kể trên hiệu quả của Dobutrex; vì liều dùng cần điều chỉnh tùy từng người bệnh, nên liều cho người lớn được tính dễ dàng với đơn vị là mg/phút. Liều Dobutrex có thể bắt đầu từ 0,1-0,2 mg/phút, và tăng dần đến 1-2 mg/phút hoặc hơn nữa, tùy thuộc vào đáp ứng huyết động học và đáp ứng trên lâm sàng của mỗi người bệnh.

Dobutrex dạng dung dịch:

Ghi chú: Không được pha thêm Dobutrex với dung dịch tiêm sodium bicarbonate 5% hoặc bất kỳ dung dịch kiềm mạnh nào khác. Vì có thể có tương kỵ vật l{, nên không được trộn chung Dobutrex với các thuốc khác trong cùng một dung dịch hoặc pha loãng với các dung dịch có chứa sodium bisulfite và ethanol.

Pha thuốc và tính ổn định: Dobutrex khi sử dụng cần được pha loãng nữa trong chai 50 mL của một trong các dung dịch truyền tĩnh mạch sau: dextrose 5%; dextrose 5% và natri chloride 0,45%; dextrose 5% và natri chloride 0,9%; dextrose 10%; Isolyte M với dextrose 5%; lactate Ringer; dextrose 5% trong lactate Ringer; Normosol M trong D5-W; Osmitrol 20% trong nước cất pha tiêm; natri chloride 0,9%, hoặc natri lactate. Dung dịch tiêm tĩnh mạch này nên được sử dụng trong vòng 24 giờ. Dung dịch chứa dobutamine hydrochloride có thể có màu hồng, càng hồng nếu càng để lâu. Sự đổi màu này do thuốc bị oxy hóa nhẹ, nhưng sẽ không ảnh hưởng đến tác dụng, nếu được dùng trong thời gian bảo quản nói trên.

Dobutrex để tiêm:

Pha thuốc: Dobutrex có thể pha với nước cất vô khuẩn pha tiêm, nước dung dịch kìm khuẩn pha tiêm, hoặc dung dịch dextrose 5%. Khi cần truyền trong thời gian dài một thể tích nhỏ, cần pha thuốc với dung dịch kìm khuẩn pha tiêm có thể làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn dung dịch trên. Không nên dùng dung dịch muối để pha Dobutrex, vì ion chloride có thể ảnh hưởng đến sự hòa tan ban đầu của Dobutrex. Để pha thuốc, thêm 10 mL dung dịch vào lọ số 7051, Dobutrex, 250 mg. Nếu thuốc không hòa tan hết, thêm 10 mL dung dịch pha nữa. Đối với lọ số 7052, thêm 10 mL dung dịch.

Pha loãng thêm: Dobutrex đã pha ở nồng độ cao đến 25 mg/mL vẫn duy trì được tính ổn định. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, Dobutrex nên được pha loãng nữa để có nồng độ 5 mg/mL hoặc thấp hơn trước khi sử dụng. Pha loãng với dung dịch tiêm truyền dextrose 5%, natri chloride 0,9%, hoặc sodium lactate.

Không được pha Dobutrex với dung dịch sodium bicarbonate 5% hoặc với bất cứ dung dịch kiềm mạnh nào khác. Do có tương kỵ vật lý, không nên pha trộn cùng với các thuốc khác trong dung dịch có chứa Dobutrex. Dobutrex không được dùng chung với thuốc hoặc dung dịch chứa natri bisulfite và ethanol.

Tính ổn định: Thuốc được pha có thể được dự trữ trong tủ lạnh trong vòng 96 giờ, hoặc 24 giờ ở nhiệt độ trong phòng. Dung dịch truyền tĩnh mạch nên dùng trong vòng 24 giờ. Dung dịch có chứa Dobutrex có thể có màu hồng, ngày càng đậm dần theo thời gian. Sự thay đổi màu này là do thuốc bị oxy hóa nhẹ, nhưng hoạt tính của thuốc không thay đổi nếu được sử dụng trong thời gian bảo quản nêu trên.

Tốc độ truyền dựa vào nồng độ Dobutrex : Tốc độ truyền cần được điều chỉnh theo nồng độ Dobutrex trong lọ dịch truyền. Bảng dưới đây sẽ hướng dẫn về tốc độ truyền [mL/(kg.phút)] cần thiết cho 3 loại nồng độ thường dùng (250, 500 và 1.000 mg/l) để đưa vào cơ thể các liều tính bằng [mg/(kg.phút)].

Quá liều

Quá liều dobutamine rất hiếm khi xảy ra. Sau đây là hướng dẫn xử trí trong trường hợp quá liều:

Các dấu hiệu và triệu chứng : Độc tính của dobutamine hydrochloride thường do tác dụng kích thích quá độ receptor beta trên tim. Thời gian tác động của dobutamine hydrochloride thường ngắn (T1/2 = 2 phút), do thuốc bị chuyển hóa nhanh qua xúc tác của catechol-Omethyltransferase. Các triệu chứng ngộ độc có thể gồm chán ăn, buồn nôn, nôn, hồi hộp, nhức đầu, run rẩy, lo âu, thở nông, đau thắt ngực, đau ngực không đặc hiệu. Các tác động tăng co bóp cơ tim và tăng nhịp tim của dobutamine trên cơ tim có thể gây tăng huyết áp, loạn nhịp nhanh, thiếu máu cơ tim, và rung thất.

Hạ huyết áp có thể là do giãn mạch.

Nếu thuốc được dùng đường uống, không phỏng đoán được sự hấp thu thuốc ở miệng và đường tiêu hóa.

Xử trí: Khi xử trí việc dùng quá liều, cần xem xét khả năng quá liều nhiều loại thuốc, tương tác giữa các thuốc và dược động học bất thường của thuốc đối với người bệnh. Động tác đầu tiên trong việc xử trí quá liều là ngừng thuốc, giữ thông đường thở, bảo đảm thông khí và đủ oxy. Bắt đầu ngay những biện pháp hồi sức. Nhịp nhanh thất nguy hiểm có thể được điều trị thành công bởi propranolol hoặc lidocaine. Tăng huyết áp thường đáp ứng điều trị với giảm liều hoặc ngừng thuốc.

Bảo vệ đường hô hấp của người bệnh, hỗ trợ thông khí và truyền dịch. Khi cần, nên kiểm tra và theo dõi dấu hiệu sinh tồn của người bệnh, các thông số như khí máu, nồng độ các chất điện giải trong huyết thanh... Sự hấp thu thuốc qua đuờng tiêu hóa có thể giảm đi bằng cách dùng than hoạt; trong nhiều trường hợp, than hoạt có hiệu lực hơn phương pháp gây nôn hoặc rửa ruột, nên dùng than hoạt để thay thế hoặc hỗ trợ cho rửa dạ dày. Dùng than hoạt lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể làm tăng thải trừ một số thuốc đã được hấp thu. Nên bảo vệ đường hô hấp của người bệnh khi rửa dạ dày hay dùng than hoạt.

Dùng thuốc lợi niệu mạnh, thẩm phân màng bụng, thẩm phân lọc máu hoặc truyền máu chưa thấy có lợi trong xử trí quá liều dobutamine hydrochloride.

Bài viết cùng chuyên mục

Daflon

Suy tĩnh mạch, đau chân, nặng chân, phù chân, giãn tĩnh mạch, sau viêm tĩnh mạch, vọp bẻ chuột rút 2 viên mỗi ngày, chia làm 2 lần.

Decolsin

Decolsin, làm giảm ho, chống sung huyết mũi, kháng histamine, long đàm, giảm đau, hạ sốt. Điều trị các triệu chứng đi kèm theo cảm lạnh hay cúm như ho, nghẹt mũi, nhức đầu, sốt và khó chịu.

Decontractyl

Decontractyl! Do trong thành phần tá dược của thuốc có tartrazine, tránh dùng cho bệnh nhân bị nhạy cảm với tartrazine và/hoặc acide acétylsalicylique do có thể bị dị ứng chéo giữa tartrazine và aspirine.

Domperidon Uphace

Bệnh nhân suy thận (giảm 30 - 50% liều và uống thuốc nhiều lần trong ngày), parkinson (không dùng quá 12 tuần và chỉ dùng Domperidon khi các biện pháp chống nôn khác, an toàn hơn không có tác dụng).

Durasal CR

Durasal CR! Salbutamol kích thích các thụ thể β2 gây ra các tác dụng chuyển hóa lan rộng: tăng lượng acid béo tự do, insulin, lactat và đường; giảm nồng độ kali trong huyết thanh.

Dicyclomine: thuốc điều trị hội chứng ruột kích thích

Dicyclomine được sử dụng để điều trị một số loại vấn đề về đường ruột được gọi là hội chứng ruột kích thích. Nó giúp giảm các triệu chứng co thắt dạ dày và ruột.

Diflunisal

Diflunisal, dẫn chất difluorophenyl của acid salicylic, là thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Mặc dù diflunisal có cấu trúc và liên quan về mặt dược lý với salicylat.

Droperidol: thuốc điều trị buồn nôn và nôn

Droperidol là một loại thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị các triệu chứng buồn nôn và nôn do phẫu thuật và các thủ thuật y tế khác và được sử dụng như một loại thuốc an thần hoặc gây ngủ.

Dithranol

Dithranol là một trong những tác nhân chọn lựa đầu tiên để điều trị bệnh vảy nến mạn tính vì dithranol khôi phục mức tăng sinh và sừng hóa bình thường của tế bào biểu bì.

Doxorubicin

Doxorubicin là một kháng sinh thuộc nhóm anthracyclin gây độc tế bào được phân lập từ môi trường nuôi cấy Streptomyces peucetius var. caecius.

Doxylamine Pyridoxine: thuốc điều trị buồn nôn và nôn khi mang thai

Doxylamine Pyridoxine là sự kết hợp của các loại thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị chứng buồn nôn và nôn trong thời kỳ mang thai.

Di-Ansel/Di-Ansel extra: thuốc giảm đau cấp tính

Di-Ansel / Di-Ansel extra được chỉ định cho bệnh nhân trên 12 tuổi để giảm đau cấp tính ở mức độ trung bình khi các thuốc giảm đau khác như paracetamol hay ibuprofen (đơn độc) không có hiệu quả, có hoặc không kèm nóng sốt.

Dopamine: thuốc tăng co bóp cơ tim

Dopamine được chỉ định để điều chỉnh sự mất cân bằng huyết động trong hội chứng sốc do nhồi máu cơ tim, chấn thương, nhiễm trùng máu nội độc tố, phẫu thuật tim hở, suy thận và mất bù tim mãn tính như trong suy sung huyết.

Decaquinon

Decaquinon! Hoạt chất của Decaquinon là ubidecarenone (Coenzyme Q10, Ubiquinone 50), chất này được phân lập đầu tiên từ cơ tim bò vào năm 1957 dưới dạng các tinh thể tan trong chất béo.

Dermatix

Làm phẳng, mềm và sáng màu theo thời gian đồng thời làm giảm ngứa và đau các vết sẹo nguyên nhân phẫu thuật, bỏng, vết cắt.

Dextran 1: thuốc ức chế kháng thể, phòng phản vệ do dextran cao phân tử

Nếu được tiêm tĩnh mạch 1 đến 2 phút trước khi truyền dextran cao phân tử, thì thuốc có tác dụng ngăn cản tạo thành các phức hợp miễn dịch và như vậy ngăn ngừa phản ứng phản vệ

Doxepin

Doxepin hydroclorid là một thuốc chống trầm cảm ba vòng. Tất cả các thuốc chống trầm cảm ba vòng đều có tác dụng dược lý giống nhau.

Dezor Kem: thuốc điều trị nấm và candida

Ketoconazole là một hoạt chất kháng nấm thuộc nhóm imidazole, có Tác dụng ức chế sự tổng hợp ergosterol. Dezor điều trị tại chỗ nấm toàn thân, nấm chân, nấm ở bẹn, bệnh vảy cám, và nhiễm nấm Candida ở da.

Divibet: thuốc điều trị tại chỗ bệnh vẩy nến

Calcipotriol là một dẫn xuất của vitamin D, tác dụng điều trị vẩy nến của calcipotriol dựa trên hoạt động làm giảm sự biệt hóa tế bào và sự tăng sinh của tế bào sừng.

Diaphyllin

Diaphyllin làm dễ dàng sự vận chuyển ion Ca2+ từ bào tương vào khoang gian bào, kết quả là giãn tế bào cơ, làm mất sự co thắt phế quản, sự thông khí phế nang được phục hồi.

Day Protocole: kem chống lão hóa da và làm mờ đốm nâu

Kem 3 trong 1: dưỡng ẩm, chống lão hóa da và làm mờ đốm nâu dùng ban ngày, dành cho da hỗn hợp tới da dầu với SPF 50, giúp phục hồi làn da yếu và rất khô với SPF 50 dùng che khuyết điểm.

Dimetapp: thuốc điều trị cảm lạnh

Dimetapp (Brompheniramine dextromethorphan phenylephrine) là sản phẩm không kê đơn (OTC) được sử dụng để giảm các triệu chứng cảm lạnh.

Doxylamine succinat: thuốc kháng histamin H1

Doxylamin là một dẫn chất ethanolamin, thuộc nhóm kháng histamin H1 thế hệ thứ nhất, an thần có tác dụng kháng muscarinic và gây buồn ngủ mạnh

Duinum: thuốc điều trị phụ nữ vô sinh không phóng noãn

Duinum (Clomifen) là một hợp chất triarylethylen phi steroid có tính chất kháng oestrogen được dùng để điều trị vô sinh nữ. Thuốc có tác dụng kháng estrogen lẫn tác dụng giống oestrogen.

Drospirenone Ethinyl Estradiol: thuốc điều trị mụn trứng cá

Drospirenone Ethinyl Estradiol là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị mụn trứng cá mức độ trung bình, rối loạn kinh nguyệt tiền kinh nguyệt và như biện pháp tránh thai để ngừa thai.