- Trang chủ
- Thuốc A - Z
- Thuốc gốc và biệt dược theo vần D
- Diphtheria antitoxin
Diphtheria antitoxin
Các kháng thể kháng độc tố bạch hầu có trong chế phẩm có khả năng kết hợp và trung hòa các độc tố do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae sinh độc sản xuất ra.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tên quốc tế: Diphtheria antitoxin.
Loại thuốc: Kháng độc tố.
Dạng thuốc và hàm lượng
Kháng độc tố bạch hầu là một dung dịch protein tinh chế, đậm đặc (chủ yếu là globulin miễn dịch) vô khuẩn, không có chất gây sốt, có chứa các kháng thể chống độc tố. Dung dịch được điều chế từ huyết tương hay từ huyết thanh ngựa khỏe mạnh đã được gây tăng miễn dịch chống độc tố bạch hầu bằng giải độc tố bạch hầu đơn thuần hoặc phối hợp với độc tố bạch hầu. Dạng thương phẩm thường chứa ít nhất 500 đvqt/ml.
Các thành phần khác: Kháng độc tố bạch hầu chứa cresol hoặc m - cresol là chất bảo quản.
Tác dụng
Các kháng thể kháng độc tố bạch hầu có trong chế phẩm có khả năng kết hợp và trung hòa các độc tố do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae sinh độc sản xuất ra.
Chỉ định
Kháng độc tố bạch hầu được dùng trong điều trị bệnh bạch hầu và rất hiếm trường hợp được dùng để phòng bệnh cho người đã tiếp xúc với bệnh nhưng chưa có triệu chứng và chưa được miễn dịch.
Thuốc kháng khuẩn (erythromycin, penicilin G) có thể loại trừ được vi khuẩn khỏi các ổ viêm nhiễm, ngăn chặn sự khuếch tán và tiết độc tố, ngăn chặn và chấm dứt tình trạng mang vi khuẩn. Tuy nhiên, các thuốc kháng khuẩn không có giá trị trung hòa độc tố bạch hầu và không thể thay thế được kháng độc tố trong điều trị bệnh. Sau khi điều trị bằng thuốc kháng khuẩn (khoảng 14 ngày) có thể khẳng định vi khuẩn đã bị loại trừ hết, khi 3 lần nuôi cấy vi khuẩn liên tiếp cho kết quả âm tính. Mặc dầu hiệu quả điều trị bệnh bạch hầu thể ngoài da bằng kháng độc tố bạch hầu còn chưa được xác định, và hầu hết các trường hợp như vậy là do C. diphtheriae không sinh độc tố gây ra, nhưng một số nhà lâm sàng vẫn khuyến cáo nên dùng kháng độc tố bạch hầu, vì đã xảy ra di chứng nhiễm độc ở một số người bệnh ở thể này.
Không khuyến cáo dùng kháng độc tố bạch hầu để phòng bệnh cho người trong cùng nhà hoặc tiếp xúc trực tiếp với người mắc bệnh bạch hầu đường hô hấp hoặc ngoài da khi chưa có biểu hiện bệnh và chưa được miễn dịch, vì có nguy cơ xảy ra các tác dụng không mong muốn (ví dụ như quá mẫn, bệnh huyết thanh) liên quan đến huyết thanh ngựa, ngay cả khi không thể theo dõi chặt chẽ được việc tiếp xúc. Vì hiệu quả của việc phòng bệnh bằng thuốc kháng khuẩn chỉ là do suy đoán mà không được chứng minh trong các kiểu tiếp xúc như vậy, nên một vài chuyên gia khuyến nghị nên dùng kháng độc tố bạch hầu khi không có điều kiện theo dõi chặt chẽ trong khoảng 7 ngày. Khi kháng độc tố bạch hầu dùng như vậy thì nên kèm với một loại thuốc kháng khuẩn để phòng và sớm bắt đầu việc gây miễn dịch chủ động. Phương pháp phòng bệnh cho người tiếp xúc người bệnh thể hô hấp và thể ngoài da là như nhau; tuy nhiên, nếu thể ngoài da là do chủng vi khuẩn C. diphtheriae không độc tính gây nên thì không cần thiết phải điều trị dự phòng.
Chống chỉ định
Dị ứng với huyết thanh ngựa.
Thận trọng
Trước khi tiêm kháng độc tố bạch hầu, cần phát hiện tiền sử mẫn cảm với huyết thanh ngựa, tiền sử hen suyễn hoặc các phản ứng dị ứng khác; tuy nhiên, test nhạy cảm cần được tiến hành cho tất cả các đối tượng kể cả không có tiền sử dị ứng trước khi tiêm chế phẩm có chứa huyết thanh ngựa.
Hết sức thận trọng khi dùng kháng độc tố bạch hầu cho những người có tiền sử dị ứng và/hoặc trước đây có biểu hiện mẫn cảm với huyết thanh ngựa. Cần chuẩn bị sẵn adrenalin và các biện pháp hỗ trợ khác để xử trí ngay phản ứng phản vệ nếu xảy ra.
Thời kỳ mang thai
Hiện không có dữ liệu về vấn đề này.
Thời kỳ cho con bú
Hiện không có dữ liệu về vấn đề này.
Tác dụng phụ
Các phản ứng phản vệ với huyết thanh ngựa đặc trưng bởi những hiện tượng nổi mày đay, khó thở, trụy mạch, xảy ra tức thì với tỷ lệ 7% ở người lớn sau khi được tiêm kháng độc tố bạch hầu. Bệnh huyết thanh xảy ra vào ngày thứ 12 trở đi sau khi tiêm kháng độc tố bạch hầu và biểu hiện là nổi mày đay, sốt, ngứa, khó chịu, sưng hạch bạch huyết và đau khớp, gặp với tỷ lệ 5 - 10% ở người lớn sau khi đã được tiêm phòng bằng kháng độc tố bạch hầu, nhưng thường xảy ra nhiều hơn khi dùng với liều điều trị. Bệnh huyết thanh thường sớm xảy ra (thời gian ủ bệnh dưới 7 - 12 ngày) ở những người trước đây đã mẫn cảm do được điều trị bằng huyết thanh ngựa. Các thuốc salicylat, kháng histamin hay các corticosteroid có thể có hiệu quả trong điều trị bệnh huyết thanh. Tỷ lệ các phản ứng phản vệ và bệnh huyết thanh có liên quan mật thiết với lượng huyết thanh ngựa đã dùng, với độ nhạy cảm của người bệnh và với tiền sử đã tiêm huyết thanh ngựa.
Liều lượng và cách dùng
Kháng độc tố bạch hầu được dùng theo đường tiêm bắp hoặc truyền nhỏ giọt chậm theo đường tĩnh mạch. Phải thử test nhạy cảm cho mọi đối tượng trước khi dùng kháng độc tố bạch hầu.
Kháng độc tố bạch hầu cần được ủ lên tới nhiệt độ 32 – 340C trước khi sử dụng; cần theo dõi cẩn thận để không vượt quá 340C.
Các mẫu bệnh phẩm để nuôi cấy vi sinh vật cần được lấy trước và sau khi điều trị hay dự phòng bệnh bạch hầu.
Khi truyền theo đường tĩnh mạch, liều thích hợp của kháng độc tố bạch hầu cần được pha loãng với một thể tích thích hợp dung dịch natri clorid 0,9% hoặc dung dịch dextrose 5% để có được nồng độ pha loãng kháng độc tố ở mức 1:20. Sau đó có thể truyền trực tiếp vào tĩnh mạch với tốc độ không quá 1 ml/phút.
Test nhạy cảm và phương pháp giải mẫn cảm
Trước khi dùng kháng độc tố bạch hầu cần tiến hành làm các test lẩy da hay trong da và test giác mạc để phát hiện độ nhạy cảm với huyết thanh. Trong trường hợp có thể thì tiến hành đồng thời cả hai test giác mạc và trong da hoặc lẩy da. Phép thử trong da được tiến hành bằng cách pha loãng kháng độc tố với dung dịch natri clorid 0,9% để có được dung dịch nồng độ 1:100, rồi tiêm trong da 0,1 ml; đọc kết quả sau 20 phút. Khi người bệnh có tiền sử dị ứng, cần tiến hành test trong da sơ bộ bằng cách tiêm 0,05 ml dung dịch pha loãng 1:1000. Mũi tiêm đối chứng, dùng dung dịch natri clorid 0,9%, tạo thuận lợi cho việc nhận định kết quả. Test trong da dương tính khi thấy nổi mày đay có hay không có chân giả và một vùng hồng ban bao quanh. Một cách khác là làm test lẩy da để thử độ nhạy cảm, bằng cách nhỏ trên vùng da định thử 1 giọt kháng độc tố pha loãng 1:100 và sau đó lẩy trên giọt thuốc một vết vào da có độ dài chừng 0,64 cm, rồi đọc kết quả sau 20 phút. Cần tiến hành làm một test đối chứng bằng cách dùng dung dịch nước muối sinh lý 0,9%. Test lẩy da được coi là dương tính khi xuất hiện một quầng mày đay, có hoặc không có các chân giả và có một vùng ban đỏ bao quanh. Test giác mạc được tiến hành bằng cách nhỏ một giọt kháng độc tố bạch hầu pha loãng 1:10 vào túi cùng của một bên mắt và đọc kết quả sau 15 phút. Test đối chứng cũng được làm tương tự bằng nhỏ một giọt dung dịch nước muối sinh lý 0,9% vào mắt bên kia. Test giác mạc được coi là dương tính nếu tại mắt bên thử xuất hiện phản ứng ngứa, đau rát, đỏ và chảy nước mắt; các dấu hiệu và triệu chứng này sẽ hết khi nhỏ vào mắt bị phản ứng 1 giọt dung dịch adrenalin dùng cho mắt. Test trong da, test lẩy da và test giác mạc âm tính thường được coi là có giá trị tin cậy, nhưng không phải là một quy tắc tuyệt đối loại trừ sự mẫn cảm toàn thân. Một khi test da và giác mạc dương tính hoặc nghi ngờ thì nên cân nhắc việc dùng kháng độc tố bạch hầu để hạn chế rủi ro; nếu bắt buộc phải dùng, thì nên tiến hành giải mẫn cảm.
Phương pháp giải mẫn cảm được tiến hành như sau: Tiêm dưới da các liều kháng độc tố bạch hầu kế tiếp nhau cứ 15 phút một lần theo tuần tự: 0,05 ml dung dịch pha loãng 1:20, 0,1 ml dung dịch 1:10, 0,3 ml dung dịch 1:10, 0,1 ml kháng độc tố không pha loãng và 0,2 ml kháng độc tố không pha loãng; cuối cùng sau 15 phút tiêm bắp 0,5 ml kháng độc tố không pha loãng. Nếu phản ứng quá mẫn xảy ra ở bất cứ thời điểm nào trong quy trình trên, thì phải tiến hành đặt ga rô ngay ở phần trên của nơi tiêm rồi tiêm adrenalin vào vùng trên của ga rô. Sau 1 giờ, có thể làm tiếp tục phương pháp giải mẫn cảm cho đến liều cuối cùng. Nếu không có phản ứng gì sau khi tiêm bắp 0,5 ml kháng độc tố không pha loãng, thì liều thường dùng còn lại sẽ được tiêm bắp hoặc tĩnh mạch.
Ðiều trị bệnh bạch hầu
Liều kháng độc tố dùng để điều trị bệnh bạch hầu phụ thuộc vào vị trí, kích thước các màng giả, mức độ nhiễm độc và thời kỳ của bệnh. Nên tiêm một lần cả tổng liều kháng độc tố. Trước khi tiêm cần phát hiện tiền sử mẫn cảm với huyết thanh ngựa, tiền sử hen suyễn hoặc các phản ứng dị ứng khác; tuy nhiên, test nhạy cảm cần được tiến hành cho tất cả các đối tượng kể cả không có tiền sử dị ứng trước khi tiêm chế phẩm có chứa huyết thanh ngựa. Bất cứ việc trì hoãn nào trong việc dùng thuốc đều có thể dẫn đến phải tăng liều và giảm hiệu quả của thuốc. Liều thường dùng cho người lớn và trẻ em là 20.000 đến 40.000 đơn vị đối với các trường hợp bạch hầu họng - thanh quản đã phát bệnh được 48 giờ; 40.000 - 60.000 đơn vị nếu bệnh có tổn thương ở vùng mũi họng, hoặc 80.000 - 120.000 đơn vị cho thể bệnh lan tỏa mạnh hoặc đã kéo dài quá 3 ngày hoặc cho những bệnh nhân có sưng hạch ở cổ. Cần theo dõi người bệnh và điều trị hỗ trợ ngay từ đầu và tiếp tục cho đến khi hết tất cả các triệu chứng tại chỗ và toàn thân, hoặc cho đến khi xác định được một loại vi sinh vật gây bệnh khác. Ðồng thời, dùng phối hợp thêm thuốc kháng khuẩn như erythromycin, penicilin G.
Phòng bệnh bạch hầu
Kháng độc tố bạch hầu hiếm khi được dùng để phòng bệnh. Khi việc phòng bệnh thấy là cần thiết đối với những người tiếp xúc với người bệnh thể đường hô hấp hoặc thể ngoài da mà trước đây chưa được tiêm phòng bằng giải độc tố thì cần phải dùng kháng sinh thích hợp trong 7 - 10 ngày (uống erythromycin hoặc tiêm bắp một liều duy nhất benzathin penicilin G), đồng thời gây miễn dịch chủ động bằng một liều giải độc tố bạch hầu và tiêm một liều duy nhất kháng độc tố bạch hầu. Liều kháng độc tố để phòng bệnh phụ thuộc vào thời gian, mức độ tiếp xúc và điều kiện sức khỏe của người được tiêm. Thông thường là tiêm bắp một liều duy nhất cho người lớn và trẻ em, từ 5.000 đến 10.000 đơn vị kháng độc tố.
Tương tác thuốc
Có thể dùng kháng độc tố bạch hầu phối hợp với giải độc tố bạch hầu. Tuy nhiên, không được trộn chung kháng độc tố và giải độc tố vào một bơm tiêm và cũng không được tiêm vào cùng một vị trí, vì chúng có thể trung hòa tác dụng của nhau.
Bảo quản
Kháng độc tố bạch hầu cần được bảo quản ở nhiệt độ lạnh từ 2 đến 8oC và tránh ánh sáng; đông lạnh không ảnh hưởng tới hiệu lực của thuốc.
Qui chế
Thuốc phải được kê đơn và bán theo đơn.
Bài viết cùng chuyên mục
Dermovate
Tenovate-G được chỉ định trong tất cả các bệnh da có chỉ định dùng Dermovate, nhưng khi có, hoặc nghi ngờ là có, hoặc dễ xảy ra nhiễm khuẩn thứ phát.
Dacarbazin
Dacarbazin là dimethyltriazen - imidazol - carboxamid (DTIC) có tác dụng chống ung thư. Thuốc đã từng được coi là một chất chống chuyển hóa, tác dụng bằng cách ức chế chuyển hóa purin và tổng hợp acid nucleic.
Duofilm
Acid salicylic có tác dụng làm tróc mạnh lớp sừng da và sát khuẩn nhẹ khi bôi trên da. ở nồng độ thấp, thuốc có tác dụng tạo hình lớp sừng, điều chỉnh những bất thường của quá trình sừng hóa.
Dimetapp: thuốc điều trị cảm lạnh
Dimetapp (Brompheniramine dextromethorphan phenylephrine) là sản phẩm không kê đơn (OTC) được sử dụng để giảm các triệu chứng cảm lạnh.
Dexambutol INH
Dexambutol INH! Trước khi kê toa éthambutol cần phải khám nghiệm mắt bao gồm đo thị lực, thị trường, khả năng phân biệt màu sắc và soi đáy mắt.
Dibucaine Topical Ointment: thuốc mỡ bôi ngoài da
Dibucaine Topical Ointment là sản phẩm không kê đơn được sử dụng để giảm đau, trĩ, cháy nắng, vết cắt, trầy xước, côn trùng cắn và kích ứng da.
Diazepam
Diazepam là một thuốc hướng thần thuộc nhóm 1,4 benzodiazepin, có tác dụng rõ rệt làm giảm căng thẳng, kích động, lo âu, và tác dụng an thần, gây ngủ.
Digoxin Immune FAB Antidote: thuốc giải độc digoxin
Digoxin Immune FAB Antidote là một loại thuốc giải độc kê đơn được sử dụng để điều trị ngộ độc digoxin. Digoxin Immune FAB có sẵn dưới các tên thương hiệu khác như Digibind, DigiFab.
Devastin: thuốc điều trị tăng cholesterol máu
Devastin là một chất ức chế chọn lọc và cạnh tranh trên men HMG-CoA reductase, là men xúc tác quá trình chuyển đổi 3-hydroxy-3-methylglutaryl coenzyme A thành mevalonate, một tiền chất của cholesterol.
Didanosin: Didanosine Stada, thuốc kháng retrovirus nucleosid ức chế enzym phiên mã ngược
Mức độ hấp thu của didanosin uống phụ thuộc vào dạng thuốc, thức ăn có trong dạ dày và nhất là pH dịch vị, vì didanosin bị pH dạ dày nhanh chóng giáng hóa
Doxapram: thuốc kích thích hô hấp
Doxapram là một loại thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị các triệu chứng của COPD liên quan đến tăng CO2 máu cấp tính, ức chế hô hấp sau gây mê và suy nhược thần kinh trung ương do thuốc.
Doxycyclin
Doxycyclin là kháng sinh phổ rộng, có tác dụng kìm khuẩn. Thuốc ức chế vi khuẩn tổng hợp protein do gắn vào tiểu đơn vị 30 S và có thể cả với 50 S của ribosom vi khuẩn nhạy cảm.
Degicosid: thuốc điều tri đau do co cứng cơ
Degicosid (Thiocolchicosid) thuộc nhóm thuốc giãn cơ, điều trị hỗ trợ trong triệu chứng đau do co cứng cơ cấp tính trong bệnh lý cột sống ở người lớn và thanh thiếu niên từ 16 tuổi trở lên.
Dompil: thuốc điều trị triệu chứng nôn và buồn nôn
Dompil được chỉ định để điều trị triệu chứng nôn và buồn nôn, đặc biệt là ở người bệnh đang điều trị bằng thuốc độc tế bào, hoặc khi có cảm giác chướng và nặng vùng thượng vị, khó tiêu sau bữa ăn do thức ăn chậm xuống ruột.
Damiana: thuốc cải thiện chức năng sinh lý
Các công dụng được đề xuất của Damiana bao gồm trị đau đầu, đái dầm, trầm cảm, khó tiêu thần kinh, táo bón mất trương lực, để dự phòng và điều trị rối loạn tình dục, tăng cường và kích thích khi gắng sức.
Dolargan
Đau dữ dội không chế ngự được bằng các thuốc giảm đau không gây nghiện (đau hậu phẫu, chấn thương, nhồi máu cơ tim cấp). Dùng tiền phẫu để gia tăng hiệu lực thuốc gây mê. Cơn đau quặn mật, cơn đau quặn thận và niệu quản.
Dimercaprol
Dimercaprol dùng để điều trị ngộ độc kim loại nặng. Một số kim loại nặng (đặc biệt là arsen, vàng, chì và thủy ngân) khi vào cơ thể liên kết với các nhóm sulphydril (SH) của hệ thống enzym pyruvat - oxydase.
DH-Alenbe Plus: thuốc điều trị loãng xương ở phụ nữ mãn kinh
DH-Alenbe Plus điều trị loãng xương ở phụ nữ mãn kinh, làm tăng khối lượng xương và giảm nguy cơ gãy xương, kể cả khớp háng, cổ tay và đốt sống (gãy do nén đốt sống). Điều trị làm tăng khối lượng xương ở nam giới bị loãng xương.
Dex-Tobrin: thuốc nhỏ mắt điều trị viêm mắt có đáp ứng với glucocorticoid
Thuốc nhỏ mắt Dex-Tobrin được chỉ định để điều trị viêm mắt có đáp ứng với glucocorticoid, có kèm theo nhiễm khuẩn ở bề mặt mắt hoặc có nguy cơ nhiễm khuẩn mắt.
Diloxanid
Diloxanid, một dẫn chất dicloroacetanilid, là thuốc có tác dụng chủ yếu diệt amip trong lòng ruột và được dùng để điều trị các bệnh amip ở ruột.
Dextropropoxyphen
Dextropropoxyphen là thuốc giảm đau dạng opi có cấu trúc liên quan đến methadon. Tuy hơi kém chọn lọc hơn morphin, nhưng dextropropoxyphen gắn chủ yếu vào thụ thể muy, làm giảm đau.
Dacarbazine Medac
Thường xuyên theo dõi kích thước, chức năng gan và số lượng tế bào máu (đặc biệt bạch cầu ái toan), nếu xảy ra tắc tĩnh mạch gan: chống chỉ định điều trị tiếp tục. Tránh sử dụng rượu và thuốc gây độc gan trong khi điều trị.
Divibet: thuốc điều trị tại chỗ bệnh vẩy nến
Calcipotriol là một dẫn xuất của vitamin D, tác dụng điều trị vẩy nến của calcipotriol dựa trên hoạt động làm giảm sự biệt hóa tế bào và sự tăng sinh của tế bào sừng.
Dinoprostone: thuốc giãn cổ tử cung và đình chỉ thai nghén
Dinoprostone là một loại thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị làm giãn mở cổ tử cung và đình chỉ thai nghén.
Dalteparin
Dalteparin là một heparin giải trùng hợp, được chế tạo bằng cách giáng vị heparin không phân đoạn có nguồn gốc từ niêm mạc ruột lợn, bằng acid nitrơ.