Đau cổ
Tiêu hủy cột sống cổ do thoái hóa đĩa đệm cột sống cổ mạn tính, với thoát vị đĩa đệm, vôi hóa thứ phát và kèm theo mọc nhanh chồi xương.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Có nhiều nguyên nhân bất thường, bẩm sinh cột sống cổ và gây đau, những nguyên nhân nảy gồm kém phát triển cột sống cổ một bên, đốt sống bị vỡ, lồng đáy sọ, và không ổn định khớp đốt đội. Chấn thương, thoái hóa đốt sống, nhiễm khuẩn và những rối loạn do khối u đều gây nên đau cổ. Viêm khớp dạng thấp bao gồm cả đốt sống cổ sẽ có ảnh hưởng đến vùng cổ gây đau, co cứng và giảm vận động.
Trật đĩa đệm cột sống cổ hoặc sai khớp đốt đội gây ép dây thần kinh có thể đe dọa tính mạng nếu không được xử trí bằng cố định.
Lồi đĩa đệm cột sống cổ cấp tính
Lồi đĩa đệm cột sống cổ cấp tính gây ra đau ở cổ và đau rễ thần kinh vùng cánh tay, đau tăng khi cử động đầu. Khi bị thoát vị đĩa đệm một bên, những thay đổi vận động, cảm giác hay phản xạ có thể do tổn thương rễ thần kinh (thường là C6 hoặc C7) ở bên tổn thương. Khi thoát vị đĩa đệm trực tiếp vùng trung tâm thì có thể ảnh hưởng đến dây thần kinh cột sống gây nên liệt cứng và rối loạn cảm giác chi dưới, đôi khi còn rối loạn chức năng cơ thắt. Chụp cộng hưởng từ và chụp CT tuỷ để chẩn đoán xác định. Đối với những trường hợp nhẹ thi điều trị bằng cách nghỉ ngơi tại giường hoặc kéo cột sống cổ ngắt quãng, sau đó cố định cổ bằng vòng đệm trong vài tuần. Nếu những biện pháp trên không thành công hoặc bệnh nhân vẫn có những biểu hiện tổn thương thần kinh thì có thể phẫu thuật để lây đĩa đệm bị lồi.
Tiêu hủy cột sống cổ
Tiêu hủy cột sống cổ do thoái hóa đĩa đệm cột sống cổ mạn tính, với thoát vị đĩa đệm, vôi hóa thứ phát và kèm theo mọc nhanh chồi xương. Một hoặc nhiều rễ thần kinh cột sống cổ có thể bị ép, bị căng, hoặc bị gấp góc. Bệnh lý tủy có thể xuất hiện như là hậu quả cứa chèn ép, thiếu máu, hoặc chấn thương nhẹ tái phát. Bệnh nhân có biểu hiện đau cổ, và cử động đầu bị hạn chế, đau đầu vùng chẩm, đau rễ thần kinh và rối loạn cảm giác ở cánh tay, yếu chân hoặc tay . Khi khám sẽ thấy động tác gấp một bên và quay cổ bị hạn chế. Có thể thấy biểu hiện yếu từng đoạn hoặc mất cảm giác (hoặc cả hai) một bên hoặc hai bên của chi trên và phản xạ gân xương giảm đi do bị ảnh hưởng của một hoặc nhiều rễ thần kinh bị tổn thương. Tổn thương các rễ thần kinh cổ 5 và cổ 6 là hay gặp nhất, thăm khám thường thấy yếu các cơ bị chi phối bởi các rễ thần kinh này (ví dụ: cơ delta, cơ nhị đầu, cơ bả vai, trên bả vai, dây thần kinh cánh tay), đau hoặc mất cảm giác vùng vai và vùng ngoài cánh tay và cẳng tay và giảm phản xạ cơ nhị đầu và phản xạ cơ cánh tay. Có biểu hiện liệt cứng nếu có kèm theo bệnh tủy sống, đôi khi kèm theo tổn thương cột sau tủy sống hoặc giảm cảm giác ở chi dưới.
Chụp X quang cột sống cổ thấy chồi xương, hẹp gian đốt sống và có sự xâm lấn vào các gian đốt sống cổ, nhưng những thay đổi như vậy hay gặp ở người trung niên vả có thể không liên quan tới hiểu hiện cơ năng, cần chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ để xác định chẩn đoán và loại trừ các nguyên nhân gây bệnh tủy sống.
Khi hạn chế vận động vùng cổ có thể dùng vòng đệm cố định để giảm đau. Điều trị phẫu thuật có thể là cần thiết để dự phòng bệnh tiến triển nặng hơn nếu thiếu sót thần kinh rõ ràng hoặc đau rễ thần kinh diễn tiến nặng, kéo dài và không đáp ứng các biện pháp bảo tồn.
Bài viết cùng chuyên mục
Chấn thương tủy
Điều trị chấn thương tủy bao gồm bất động và nếu có chèn ép tủy thì phẫu thuật cung đốt sống giải phóng chèn ép và sau đó kết hợp xương làm kín cung đốt sống.
Hội chứng Parkinson
Khi vào cơ thể levodopa được chuyển thành dopamin, thuốc có tác dụng cải thiện tất cả các triệu chứng chính của hội chứng Parkinson kể cả vận động chậm, nhưng thuốc không làm ngừng sự tiến triển của bệnh.
Phình động mạch nội sọ
Điều trị triệt để là phẫu thuật kẹp cuống túi phình. Nếu không thể phẫu thuật được, điều trị nội khoa như chảy máu dưới màng nhện trong khoảng 6 tuần và sau đó vận động dần dần.
Các bệnh mạch máu tủy
Ở vùng tủy cổ, động mạch tủy trước có tương đối nhiều mạch nuôi, vì vậy nhồi máu tủy hầu hết xảy ra ở vùng đuôi ngựa. Biểu hiện lâm sàng là liệt hai chân đột ngột.
Áp xe não
Chụp cắt lớp sọ não sẽ thấy vùng ngâm thuốc cản quang ở xung quanh và ở giữa là vùng giảm tỷ trọng. Hình ảnh tương tự cũng có thể thấy ở bệnh nhân u não di căn.
Đau vùng lưng dưới
Rối loạn rễ thần kinh cũng gây ra dị cảm và tê ở vùng da (đối lập với dây thần kinh ngoại biên) và yếu cơ phân bố theo đoạn, thay đổi phản xạ kèm theo tổn thương sợi thần kinh cảm giác hoặc vận động.
Xơ cứng rải rác từng đám
Biểu hiện đầu tiên thường gặp là yếu, tê bì, đau nhói hoặc khó chịu ở một chi liệt; cứng chi dưới; viêm thần kinh hậu nhãn cầu; nhìn đôi; mất thăng bằng.
Động kinh
Các rối loạn chuyển hóa như hạ calci máu, hạ đường máu, thiếu hụt pyridoxin, acid phenylpyruvic niệu là các nguyên nhân chính có thể điều trị được gây động kinh ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Chẩn đoán yếu cơ và liệt cơ
Yếu cơ do tổn thương neuron I của đường vận động được đặc trưng bằng tổn thương khu trú một số nhóm cơ kết hợp với tăng trương lực, tăng phản xạ gân xương và có phản xạ duỗi gan bàn chân.
Chấn thương đầu
Chụp sọ thường và chụp cắt lớp sọ có thể thấy vỡ xương. Do chấn thương đốt sống có thể xảy ra trong chấn thương đầu nên cần chụp đốt sống cổ ở bệnh nhân hôn mê.
Bệnh não Wernicke
Trong các trường hợp nghi ngờ, truyền tĩnh mạch thiamin sau đó tiêm bắp hàng ngày cho tới khi chế độ ăn đầy đủ. Truyền tĩnh mạch glucose trước khi dùng thiamin.
Giật rung cơ
Giật cơ có thể đáp ứng với một số thuốc chống động kinh, đặc biệt là acid valproic hoặc một số thuốc nhóm benzodiazepin, đặc biệt là clonazepam.
Một số bệnh thần kinh da
Hội chứng Sturge Weber là u mạch bẩm sinh ở da nửa trên của mặt thường là một bên. U mạch còn có thể ở màng não tủy và màng mạch. Bệnh ngang nhau ở hai giới và thường xảy ra lẻ tẻ.
Trạng thái sững sờ và hôn mê
Việc chẩn đoán ở bệnh nhân hôn mê cần phải tiến hành đồng thời với điều trị. Điều trị hỗ trợ hô hấp và huyết áp được đặt lên hàng đầu; ở bệnh nhân hạ thân nhiệt tất cả các dấu hiệu sống.
U não nguyên phát
U não có thể gây ra các rối loạn chức năng não và các dấu hiệu của tăng áp lực nội sọ. Cuối cùng u não có thể gây thay đổi tính cách, trí tuệ, cảm xủc và gây động kinh, đau đầu, buồn nôn, mệt mỏi.
Chẩn đoán nguyên nhân thần kinh của ngất
Cắt ngang tủy và các bệnh tủy khác như u tủy hoặc bệnh rỗng tủy ở trên mức tủy lưng 6 gây nên hạ huyết áp tư thế cũng như tổn thương thân não trong rỗng hành tủy và u hố sau.
Xoắn vặn trương lực tự phát
Bệnh được đặc trưng bởi sự xuất hiện các cử động và tư thế bất thường ở bệnh nhân có tiền sử sinh đẻ và phát triển bình thường, không liên quan gì đến tiền sử bệnh tật cũ.
Hội chứng liệt chu kỳ
Ở thanh niên Châu Á, hội chứng này thường đi kèm hội chứng cường giáp, điều trị là cần điều chỉnh nội tiết trước và phòng cơn tái phát sau đó.
Co cứng cơ
Điều trị thuốc cũng quan trọng nhưng điều trị cũng có thể làm tăng triệu chứng liệt vận động vì sự tăng trương lực cơ duỗi có tác dụng hỗ trợ cho chi liệt ở các bệnh nhân.
Bệnh nhược cơ nặng
Bệnh nhân có biểu hiện sụp mi, song thị, khó nhai và khó nuốt, khó thở, yếu chi, hoặc phối hợp các triệu chứng này. Yếu cơ có thể chủ yếu khu trú ở nhóm cơ.
Tổn thương đám rối thần kinh cánh tay và thắt lưng
Ép các rễ thần kinh C8 và T1 hoặc thân đám rối thần kinh cánh tay do xương sườn cổ hoặc bó xơ phát sinh từ đốt sống cổ 7 dẫn đến yếu cơ và nhược cơ bàn tay.
Bệnh ngộ độc thịt
Khi nghi ngờ ngộ độc thịt cần phải báo cho cơ quan y tế địa phương và gửi một mẫu huyết thanh bệnh nhân cùng với thức ăn nghi nhiễm khuẩn (nếu có thể) tới một cơ sở xét nghiệm để xác định độc tố.
Tổn thương choán chỗ nội sọ ở bệnh nhân AIDS
Viêm màng não do cryptococcus là một nhiễm trùng cơ hội hay gặp ở bệnh nhân AIDS. Bệnh cảnh lâm sàng có thể tương tự như nhiễm toxoplasma não hoặc u lympho não nhưng chụp cắt lớp sọ thường là bình thường.
Bệnh tủy ở bệnh nhân AIDS
Khi u lympho ở ngoài màng cứng gây ra bệnh tủy do chèn ép, đau và ấn cột sống đau là thường thấy và chụp tủy cản quang hoặc cộng hưởng từ phát hiện tổn thương.
Đau mặt
Đau mặt không có các triệu chứng điển hình của đau dây V thường là đau âm ỉ, rát bỏng khu trú ở một vùng sau đó nhanh chống lan ra các vùng khác của mặt cùng bên.