Co cứng cơ

2016-01-14 10:56 PM

Điều trị thuốc cũng quan trọng nhưng điều trị cũng có thể làm tăng triệu chứng liệt vận động vì sự tăng trương lực cơ duỗi có tác dụng hỗ trợ cho chi liệt ở các bệnh nhân.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thuật ngữ co cứng thường được dùng để chỉ liệt trung ương nhưng chính xác hơn là sự tăng kháng lực với các vận động thụ động vả thường có các dấu hiệu của tổn thương bó tháp. Co cứng cơ thường là biến chứng của đột quỵ, chấn thương não hoặc tủy, bệnh não chu sinh, và xơ cứng rải rác từng đám. Lý liệu pháp với chương trình kéo căng thích hợp là quan trọng trong thời gian phục hồi chức năng sau tổn thương neuron vận động trung ương và điều trị tiếp theo ở bệnh nhân; mục đích là ngăn chặn sự co rút của cơ và khớp, có lẽ là điều chỉnh sự co cứng.

Điều trị thuốc cũng quan trọng nhưng điều trị cũng có thể làm tăng triệu chứng liệt vận động vì sự tăng trương lực cơ duỗi có tác dụng hỗ trợ cho chi liệt ở các bệnh nhân. Dantrolence làm yếu cơ co cứng do ảnh hưởng đến vai trò của calci. Tránh dùng thuốc này ở những bệnh nhân có chức năng hô hấp kém hoặc bệnh cơ tim nặng. Liều điều trị khởi đầu là 25 mg ngày 1 lần sau đó cứ 3 ngày tăng liều lên 25 mg tùy theo sự dung nạp thuốc, tối đa là 100 mg ngày 4 lần. Tác dụng phụ là ỉa chảy, buồn nôn, yếu chi, rối loạn chức năng gan (có thể gây tử vong, đặc biệt ở phụ nữ trên 35 tuổi), u ám, chóng mặt, và ảo giác.

Baclofen là thuốc có tác dụng điều trị các co cứng có nguồn gốc tủy và đau do co cứng cơ gấp (hoặc cơ duỗi). Liều tối đa 80 mg/ngày; liều bắt đầu điều trị là 5 mg hoặc 10 mg, ngày 2 lần. Các tác dụng phụ gồm rối loạn dạ dày ruột, mệt nhọc, mệt mỏi, an thần, bồn chồn, lú lẫn, và ảo giác. Diazepam có thể cải thiện tình trạng co cứng do tác dụng lên neuron trung gian ở tủy và có lẽ tác dụng lên cả các trung tâm trên tủy, nhưng liều điều trị thường dung nạp kém và khác nhau ở từng cá nhân. Tizanidin, thuốc đồng vận α2 tiết adrenalin cũng có hiệu quả như các thuốc ở trên, nhưng có lẽ dung nạp tốt hơn. Liều hàng ngày tăng dần, thường là tới 8 mg, ngày 3 lần. Tác dụng phụ là an thần, mệt mỏi, hạ huyết áp, và khô miệng.

Phong bế điểm vận động bằng tiêm vào trong bao phenol vào cơ được sử dụng để làm giảm co cứng chọn lọc ở một vài cơ quan quan trọng và có thể phục hồi chức năng ở bệnh nhân bệnh tủy một phần. Tiêm độc tố botulinum vào trong cơ có thể có tác dụng. Tiêm vào trong bao phenol hoặc cồn tuyệt đối có thể có tác dụng ở các trường hợp nặng nhưng tác dụng chọn lọc lớn hơn có thể đạt được nếu phong bế rễ hoặc dây thần kinh ngoại biên. Phương pháp này không được tiến hành cho tới khi hội chứng co cứng cơ biểu hiện đầy đủ, ví dụ sau khoảng 1 năm hoặc hơn, và chỉ khi điều trị thuốc kéo dài không có tác dụng hoặc bệnh nhân có nguy cơ đáng kể.

Một số loại phẫu thuật, ví dụ như cắt gân khép hoặc gân gót, có thể có tác dụng. Phẫu thuật cắt dây thần kinh cũng có thể làm cho bệnh nhân cử động dễ hơn. Ví dụ cắt dây bịt có tác dụng ở bệnh nhân có cơ khép gây ảnh hưởng đi vệ sinh và dáng đi: Phẫu thuật cắt rễ sau của dây thần kinh tủy sống làm giảm co cứng cơ nhưng tác dụng này có thể ngắn, trong khi đó cắt rễ trước có thể làm yếu vĩnh viễn cơ mà nó chi phối.

Co cứng cơ có thể nặng hơn do loét tì đè, nhiễm khuẩn tiết niệu và nhiễm khuẩn khác và các kích thích nhận cảm đau.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh tủy ở bệnh nhân AIDS

Khi u lympho ở ngoài màng cứng gây ra bệnh tủy do chèn ép, đau và ấn cột sống đau là thường thấy và chụp tủy cản quang hoặc cộng hưởng từ phát hiện tổn thương.

Huyết khối tĩnh mạch nội sọ

Huyết khối tĩnh mạch nội sọ có thể xảy ra trong viêm nhiễm nội sọ hoặc vùng hàm mặt, tình trạng tăng đông, đa hồng cầu, bệnh hồng cầu hình liềm, tím do bệnh tim bẩm sinh, trong và sau sinh.

Rỗng tủy

Bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng gồm teo cơ từng đoạn, mất phản xạ và mất cảm giác đau, nóng lạnh phân bố theo kiểu áo choàng do sự phá hủy các sợi bắt chéo phía trước kênh nội tủy.

Rối loạn thần kinh do thiếu Vitamin E

Thiếu vitamin E có thể xảy ra như là hậu quả của kém hấp thu hoặc bệnh di truyền. Điều trị bằng alpha-tocopheryl acetat (như Aquasol E viên hoặc giọt).

Một số bệnh thần kinh da

Hội chứng Sturge Weber là u mạch bẩm sinh ở da nửa trên của mặt thường là một bên. U mạch còn có thể ở màng não tủy và màng mạch. Bệnh ngang nhau ở hai giới và thường xảy ra lẻ tẻ.

Hội chứng Gilles de la tourette

Thăm khám không thấy bất thường nào khác ngoài các cố tật. Bên cạnh đó có thể có rối loạn hành vi, rối loạn tâm thần do xấu hổ về mặt xã hội và thẩm mỹ.

Nhồi máu não

Huyết khối mạch hoặc nghẽn mạch làm tắc một mạch máu lớn gây nên nhồi máu não. Nguyên nhân của nhồi máu não là hậu quả của thiếu máu não thoáng qua và xơ vữa của các động mạch não.

Run lành tính vô căn

Mặc dù run ngày càng rõ và gây các trở ngại nhẹ nhưng điều trị thường là không cần thiết. Đôi khi run ảnh hưởng đến các kỹ năng thông thường.

Các rối loạn bệnh lý cơ

Các bệnh cơ ty lạp thể là một nhóm các rối loạn có biểu hiện lâm sàng đa dạng. Xét nghiệm mô bệnh học với phương pháp nhuộm Gomori cải tiến cho hình ảnh tổn thương đặc trưng.

U não nguyên phát

U não có thể gây ra các rối loạn chức năng não và các dấu hiệu của tăng áp lực nội sọ. Cuối cùng u não có thể gây thay đổi tính cách, trí tuệ, cảm xủc và gây động kinh, đau đầu, buồn nôn, mệt mỏi.

Biến chứng thần kinh không do di căn của bệnh ác tính

Rối loạn mạch máu não gây ra biến chứng thần kinh ở bệnh nhân ung thư hệ thống bao gồm viêm nội tâm mạc huyết khối không do nhiễm khuẩn và huyết khối nhiễm khuẩn.

Tổn thương đám rối thần kinh cánh tay và thắt lưng

Ép các rễ thần kinh C8 và T1 hoặc thân đám rối thần kinh cánh tay do xương sườn cổ hoặc bó xơ phát sinh từ đốt sống cổ 7 dẫn đến yếu cơ và nhược cơ bàn tay.

Xoắn vặn trương lực tự phát

Bệnh được đặc trưng bởi sự xuất hiện các cử động và tư thế bất thường ở bệnh nhân có tiền sử sinh đẻ và phát triển bình thường, không liên quan gì đến tiền sử bệnh tật cũ.

Phình động mạch nội sọ

Điều trị triệt để là phẫu thuật kẹp cuống túi phình. Nếu không thể phẫu thuật được, điều trị nội khoa như chảy máu dưới màng nhện trong khoảng 6 tuần và sau đó vận động dần dần.

Dị dạng thông động tĩnh mạch

Dị dạng thông động tĩnh mạch là dị tật mạch máu bẩm sinh do sự phát triển bất thường tại chỗ của đám rối mạch nguyên thủy làm cho động mạch thông với tĩnh mạch không qua hệ thống mao mạch.

Đau đầu

Khởi phát đau đầu dữ dội, ở bệnh nhận trước đó khỏe mạnh thì hầu như chắc chắn có liên quan đến tổn thương nội sọ, như chảy máu dưới nhện.

Hội chứng liệt chu kỳ

Ở thanh niên Châu Á, hội chứng này thường đi kèm hội chứng cường giáp, điều trị là cần điều chỉnh nội tiết trước và phòng cơn tái phát sau đó.

Đau cổ

Tiêu hủy cột sống cổ do thoái hóa đĩa đệm cột sống cổ mạn tính, với thoát vị đĩa đệm, vôi hóa thứ phát và kèm theo mọc nhanh chồi xương.

Hội chứng Parkinson

Khi vào cơ thể levodopa được chuyển thành dopamin, thuốc có tác dụng cải thiện tất cả các triệu chứng chính của hội chứng Parkinson kể cả vận động chậm, nhưng thuốc không làm ngừng sự tiến triển của bệnh.

Trạng thái sững sờ và hôn mê

Việc chẩn đoán ở bệnh nhân hôn mê cần phải tiến hành đồng thời với điều trị. Điều trị hỗ trợ hô hấp và huyết áp được đặt lên hàng đầu; ở bệnh nhân hạ thân nhiệt tất cả các dấu hiệu sống.

Chấn thương đầu

Chụp sọ thường và chụp cắt lớp sọ có thể thấy vỡ xương. Do chấn thương đốt sống có thể xảy ra trong chấn thương đầu nên cần chụp đốt sống cổ ở bệnh nhân hôn mê.

Xơ cứng rải rác từng đám

Biểu hiện đầu tiên thường gặp là yếu, tê bì, đau nhói hoặc khó chịu ở một chi liệt; cứng chi dưới; viêm thần kinh hậu nhãn cầu; nhìn đôi; mất thăng bằng.

Bệnh nhược cơ nặng

Bệnh nhân có biểu hiện sụp mi, song thị, khó nhai và khó nuốt, khó thở, yếu chi, hoặc phối hợp các triệu chứng này. Yếu cơ có thể chủ yếu khu trú ở nhóm cơ.

Giật rung cơ

Giật cơ có thể đáp ứng với một số thuốc chống động kinh, đặc biệt là acid valproic hoặc một số thuốc nhóm benzodiazepin, đặc biệt là clonazepam.

Thiếu máu não cục bộ thoáng qua

Rất nhiều bệnh nhân thiếu máu não cục bộ thoáng qua do cục máu đông từ tim hoặc từ động mạch lớn ngoài sọ và cục máu đông đôi khi thấy ở động mạch võng mạc.