Thiếu vitamin B12

2016-11-10 07:28 PM

Vitamin B12 có trong mọi thực phẩm nguồn gốc động vật nên chế độ ăn thiếu vitamin B12 là rất hiếm và chỉ gặp ở những người ăn chay, hoàn toàn ăn rau và tránh mọi thực phẩm nguồn gốc động vật như thịt, cá.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tiếp cận tổng quát về thiếu máu

Có thiếu máu ở người trưởng thành như hematocrit thấp hơn 4.1% (Hb < 13,5 g/dL) ở nam hay 37% (Hb < 12 g/dL) ở nữ. Dựa vào bệnh sử, nghĩ đến thiếu máu bẩm sinh khi có tiền sử cá nhân và gia đình. Dinh dưỡng thiếu thốn gây thiếu acid folic và có thể tham gia vào thiếu sắt. Phải luôn luôn nghĩ đến thiếu sắt khi có chảy máu. Thăm khám thực thể bao gồm chú ý cẩn thận đến các dấu hiệu của những bệnh máu tiên phát (các bệnh ở hạch, gan lách to hay tủy xương suy kém). Những thay đổi niêm mạc như lưỡi nhẵn bóng đưa ra khả năng thiếu máu hồng cầu khổng lồ.

Thiếu máu được phân loại tùy theo cơ sở sinh lí bệnh của chúng nghĩa là hoặc liên quan đến giảm sản xuất hoặc tăng mất hồng cầu hay tùy theo kích thước tế bào. Các khả năng chẩn đoán khi có thiếu máu hồng cầu nhỏ là thiếu sắt, bệnh thalassemia và thiếu máu trong những bệnh mạn tính. Thiếu máu hồng cầu nhỏ nhiều (Mean Cell volume - MCV - thể tích trung bình hồng câu < 70 fL) thường là do hoặc thiếu sát hoặc do thalassemia. Thiếu máu hồng cầu to có thể do hoặc nguyên hồng cầu khổng lò (thiếu folat hay vitamin B12) hoặc do những nguyên nhân không phải nguyên hồng cầu khổng lồ. Thiếu máu hồng cầu to quá (MCV > 125 fL) phần lớn do những nguyền nhân nguyên hồng cầu khổng lồ; cá biệt do hội chứng rối loạn tủy hoặc trước hay sau hóa trị liệu.

Những yểu tố cần thiết cho chẩn đoán

Thiếu máu hồng cầu to.

Bạch cầu trung tính máu ngoại biên phân đoạn nhiều và hình oval to.

Mức vitamin B12 huyết thanh dưới 100 pg/ml.

Nhận định chung

Vitamin B12 thuộc nhóm cobalamin và được sử dụng như một đồng yếu tố cho hai phản ứng quan trọng trong cơ thể con người là methylcobalamin, nó dùng như như một đồng yếu tố cho methionin synthetase trong chuyển liomocystein thành methionin. Là adenosylcobalamin, nó dùng như một yếu tố để chuyển methylmalonyl - CoA thành succinyl - CoA. Tất cả vitamin B­12 đều lấy từ dinh dưỡng và có trong tất cả các thực phẩm có nguồn gốc động vật. Hàng ngày hấp thu 5 µg vitamin B12.

Sau khi ăn vào, vitamin B12 sẽ gắn với nội yếu tố, một protein được bài tiết từ tế bào thành dạ dày. Các protein gắn colbalamin khác (được gọi là yếu tố R) cạnh tranh vitamin B12 với nội yếu tố. Vitamin B12 vượt qua ruột và được hấp thụ ở cuối hồi tràng bởi những tế bào có thụ thể đặc hiệu cho phức hợp. Sau đó được chuyển qua huyết tương và tích trữ ở gan. Ba huyết tương vận chuyển protein đã phân lập được. Transcobalamin I và III (chỉ khác nhau ở cấu trúc cacbonhydrat) được bài tiết bởi bạch cầu. Khoảng 90% vitamin B12 huyết: tương lưu hành gắn vào protein này, chỉ có transcobalamin II có khả năng vận chuyển vitamin B12 vào trong tế bào. Gan chứa 2000 - 5000 µg vitamin B12 tích trữ. Vì hàng ngày mất độ 3 - 5 µg/ngày và có thể thường có đủ lượng tích trữ cho nên chì thiếu vitamin B12 sau hơn 3 năm ngừng hấp thu.

Vitamin B12 có trong mọi thực phẩm nguồn gốc động vật nên chế độ ăn thiếu vitamin B12 là rất hiếm và chỉ gặp ở những người ăn chay, hoàn toàn ăn rau và tránh mọi thực phẩm nguồn gốc động vật như thịt, cá (bảng).

Bảng. Những nguyên nhân gây thiếu vitamin B12

Chế độ ăn uống thiếu (hiếm).

Sản xuất nội yếu tố giảm sút.

+ Thiếu máu ác tính.

+ Cắt đoạn dạ dày.

Tranh giành vitamin B12 trong ruột.

+ Hội chứng quai mù.

+ Sán dây cá (hiếm).

Suy tụy.

Giảm hấp thụ vitamin B12 ở hồi tràng.

+ Phẫu thuật cắt bỏ.

+ Bệnh Crohn.

Thiếu trạnscobalamin II (hiếm).

Phẫu thuật bụng có thể dẫn đến thiếu vitamin B12 bằng nhiều đường. Cắt đoạn dạ dày làm loại bỏ nơi sản sinh nội yếu tố - hội chứng quai mù sẽ gây hiện tượng tranh giành vitamin B12 do phát triển quá mức vi khuẩn trong lòng ruột và phẫu thuật cắt bỏ hồi tràng sẽ làm mất nơi hấp thu vitamin B12. Những nguyên nhân hiếm của thiếu vitamin B12 gồm nhiễm sán dây cá (Diphyllobothrium latum) trong đó kí sinh trùng sử dụng vitamin B12 trong lòng ruột, suy tuỵ (do tổn thương làm vô hiệu hóa các protein gắn cobalamin bù trừ và bệnh Crohn nặng gây hủy hoại hồi tràng đủ để làm chậm sự hấp thu vitamin B12.

Nguyên nhân chính thường gây thiếu vitamin B12 liên quan đến bệnh thiếu máu ác tính. Đây là một rối loạn di truyền tự miễn trước đây gặp ở những bệnh nhân vùng Scadinave hay nguồn gốc Bắc Âu, nhưng hiện nay được ghi nhận tăng lên ở những người da đen trẻ và phụ nữ Tây Ban Nha. Mặc dù là bệnh di truyền song bệnh rất ít khi biểu hiện trước tuổi 35. Thiếu máu ác tính gây ra một số dấu hiệu lâm sàng phối hợp với thiếu vitamin B12. Viêm teo dạ dày không nhất thiết có và là hậu quả của vô toan kháng histamin. Những bệnh nhân này có thể có một số bệnh tự miễn dịch khác, bao gồm cả thiếu IgA như suy nhiều tuyến nội tiết. Sàu này, viêm teo dạ dày thường gây tăng nguy cơ ung thư dạ dày.

Triệu chứng và dấu hiệu

Dấu hiệu của thiếu vitamin B12 là thiếu máu hồng cầu khổng lồ. Thiếu máu có thể nặng, hematocrit thấp hơn 10 - 15%. Tình trạng tế bào khổng lồ cũng gây những thay đổi trong các tế bào niêm mạc gây viêm lưỡi và rối loạn phế vị dạ dày - ruột khác như chán ăn và ỉa chảy. Thiếu vitamin B12 cũng dẫn đến một hội chứng thần kinh phức hợp. Các thần kinh ngoại biên thường bị tổn thương trước tiên và người bệnh trước hết bị dị cảm. Sau đó bị suy chức năng tủy sống với than phiền khó giữ thăng bằng. Trong những thể bệnh tiến triển hơn, chức năng não bị suy giảm, đôi khi sa sút trí tuệ và những thay đổi tâm lí thần kinh có thể xẩy ra trước những thay đổi về huyết học.

Xét nghiệm labo

Tình trạng tế bào khổng lồ gây nên thiếu máu với mức độ nặng khác nhau mà trong hoàn cảnh đặc biệt có thể trở nên rất nặng. MCV thường cao rõ rệt 110 - 140 fL. Tuy nhiên, có thể bị thiếu vitamin B12 mà MCV vẫn bình thường. Đôi khi, MCV bình thường được giải thích bằng đồng thời bị bệnh thalassemia hay thiếu sắt nhưng trong các trường hợp khác lí do của MCV bình thường là không rõ. Bệnh nhân có hội chứng thần kinh và những dấu hiệu làm nghĩ đến khả năng thiếu vitamin B12 hoàn toàn vẫn có thể được nghĩ đến khả năng thiếu vitamin B12 dù rằng MCV bình thường và không có thiếu máu. Phết kính máu ngoại biên thường bất thường một cách nổi bật với những hồng cầu mầu sắc không đều và đa hình thái. Một phát hiện đặc hiệu là những hồng cầu to hình elip nhưng nhiều hình ảnh bất thường khác cũng thường thấy, vì hình thái hồng cầu bất thường rõ rệt nên thường có thể bị nhầm thiếu máu là do tan máu. Bạch cầu trung tính thường bị phân đoạn nhiều. Nét đặc biệt điển hình là số lượng các múi thường lớn hơn 4 hay có, thấy cả những bạch cầu trung tính 6 múi. Số lượng hồng cầu lưới giảm. Vì thiếu vitamin B12 gây tổn thương mọi dòng tế bào tạo huyết, trong những trường hợp nặng số lượng bạch cầu và tiểu cầu thường giảm và có thiếu máu ngoại biên toàn bộ các dòng tế bào.

Hình thái tủy xương bị bất bình thường một cách đặc hiệu. Tăng sinh dòng hồng cầu rõ rệt là một đáp ứng với sản xuất hồng cầu thiếu sót (tạo hồng cầu vô hiệu quả). Những thay đổi hồng cầu khổng lồ đặc biệt trong dòng hồng cầu gồm kích thước tế bào lớn bất thường và tình trạng trưởng thành không đồng thời gian của nhân và nguyên sinh chất; có nghĩa là độ trưởng thành của nguyên sinh chất vẫn tiếp tục trong khi tổng hợp ADN không đủ do đó gây hiện tượng phát triển nhân chậm. Trong dòng tủy có thấy những tủy bào dị thường khổng lồ.

Những bất thường labo khác bao gồm tăng LDH huyết thanh và tăng nhẹ bilirubin gián tiếp. Hai xét nghiệm này phản ánh tình trạng phá hủy trong tủy của những tế bào dòng hồng cầu phát triển bất thường.

Chẩn đoán thiếu vitamin B12 có được là nhờ nhận biết mức vitamin B12 huyết thanh thấp bất thường. Trong khi mức bình thường vitamin B12 huyết thanh là 130 - 150 pg/mL, đa số bệnh nhân bị thiếu vitamin B12 có mức thấp hơn 100 pg/mL. Test Schilling được dùng để đánh giá tình trạng hấp thu kém vitamin B12 uống, đặc biệt trong thiếu máu ác tính. Trước hết, cho tiêm bắp vitamin B12 liều cao để bão hoà huyết tương vận chuyển protein. Cho uống vitamin B12 có gắn phóng xạ và lấy nước tiểu 24 giờ để xác định bao nhiêu được hấp thụ và bao nhiêu bị bài tiết. Bình thường, hơn 7% của liều uống vào có trong nước tiểu, đa số bệnh nhân hấp thu kém sẽ có dưới 3% của liều ở trong nước tiểu. Giai đoạn hai của test Schilling là cho uống vitamin B12 có gắn phóng xạ cùng với nội yếu tố. Nếu thiếu máu ác tính (không có nội yếu tố) là do thiếu vitamin B12, việc dùng phối hợp vitamin B12 và nội yếu tố sẽ điều chỉnh tình trạng hấp thu thấp bất thường. Tuy nhiên, tình trạng "nở rộ" hồng cầu khổng lồ gây ra những bất thường ở niêm mạc ruột có thể dẫn tới tình trạng kém hấp thu toàn thể. Trong những trường hợp này, test Schilling làn hai cũng vẫn bất thường cho đến khi tổn thương niêm mạc ruột được điều chỉnh bằng thay thế vitamin B12 (trong khoảng 2 tháng). Tiếp tục đánh giá lại cho đến khi đã điều chỉnh. Nếu thiếu hụt do vi khuẩn phát triển quá mức trong manh tràng gây nên thì liệu trình kháng sinh sẽ làm đảo ngược bất thường giai đoạn hai của test Schilling.

Chẩn đoán phân biệt

Cần phân biệt thiếu vitamin B12 với thiếu acid folic, một nguyên nhân thường gặp khác của thiếu máu hồng cầu khổng lồ trong đó folat hồng cầu thấp mà mức vitamin B12 lại bình thường. Việc phân biệt giữa thiếu vitamin B12 với loạn sản tủy (một nguyên nhân khác thường gây thiếu máu hồng cầu to với hình thái bất thường) dựa trên những đặc điểm hình thái học và mức vitamin B12 thấp.

Điều trị

Bệnh nhân bị thiếu máu ác tính thường được điều trị bằng đường tiêm. Tiêm bắp 100 µg vitamin B12 thường là đủ cho mỗi liều. Thường cho vào các ngày trong tuần đầu, hàng tuần trong tháng đầu và rồi hàng tháng trong suốt đời. Cần xác định thiếu máu ác tính là một rối loạn cả đời và nếu bệnh nhân ngắt đoạn điều trị hàng tháng thì sẽ lại tái phát thiếu vitamin. Uống cobalamin liều cao (1000µg/ngày) có thể thay thế cho tiêm nhưng phải dùng hàng ngày liên tục.

Bệnh nhân đáp ứng với điều trị thể hiện bằng cải thiện tức thì theo chiều hướng tốt. Hạ kali máu có thể là biến chứng trong vài ngày đầu điều trị, đặc biệt là nếu thiếu máu nặng. Một cơn tăng hồng cầu lưới xảy ra sau 5 - 7 ngày và hình ảnh huyết học trở lại bình thường trong 2 tháng. Những triệu chứng của hệ thần kinh trung ương phục hồi nếu thời gian bệnh kéo dài tương đối ngắn (dưới 6 tháng) nhưng cũng có thể là vĩnh viễn nếu không bắt đầu điều trị một cách hợp lí.

Bài viết cùng chuyên mục

Truyền máu: làm test hòa hợp, phản ứng và bệnh lây truyền

Hồng cầu đóng gói là một hợp thành được dùng nhiều nhất để làm tăng hematocrit. Mỗi đơn vị có một thể tích khoảng 300 mL trong đó gần 200 mL chứa hồng cầu.

Chất chống đông do Luput

Một cách trái khoáy, yếu tố chống đông do luput thường có liên quan với nguy cơ tăng bị huyết khối và sẩy thai tự phát liên tiếp.

Tình trạng tăng đông máu

Ung thư thường có nguy cơ tăng của cả huyết khối động mạch và tĩnh mạch. Trong một vài trường hợp, đông máu rải rác nội mạch mức độ thấp hình như cũng có trách nhiệm.

Kháng thể yếu tố VIII mắc phải

Điều trị chọn lọc là cyclophosphamid thường phối hợp với prednison. Trong thời gian quá độ, việc thay đổi yếu tố VIII tái phạm có thể là cần thiết. Thay huyết tương để làm giảm trị giá chất ức chế có thể có ích.

Đông máu rải rác nội mạch

Quá trình đông máu thường được hạn chế ở một diện tích khu trú bởi sự phối hợp của dòng máu và các chất ức chế động máu lưu hành, đặc biệt là antithrombin III.

Thiếu vitamin K

Những yếu tố tham gia gây thiếu vitamin K, gồm chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, kém hấp thu và những kháng sinh phổ rộng làm mất các khuẩn lạc

Bệnh lý đông máu trong bệnh gan

Bệnh lý đông máu do bệnh gan gây ra những bất thường rõ rệt hơn về thời gian prothrombin và thời gian thromboplastin một phần. Rất sớm trong tiến trình bệnh gan, chỉ có thời gian prothrombin bị tổn thương.

Một số rối loạn đông máu bẩm sinh

Trong rối loạn hiếm gặp này, fibrinogen không có và cả thời gian prothrombin lẫn thời gian thromboplastin một phần đều kéo dài rõ rệt. Những bệnh nhân này có thể bị rối loạn chảy máu nặng giống như hemophilia.

Hemophila B: bệnh ưa chảy máu B

Hemophilia yếu tố IX được điều trị bằng yếu tố IX đâm đặc. Yếu tố VIII đậm đặc là không có hiệu quả trong thể bệnh hemophilia này, do vậy cần phải phân biệt giữa hai thể bệnh.

Hemophilia A: bệnh ưa chảy máu A

Thật đáng buồn, hiện nay nhiều người bị hemophilia có huyết thanh dương tính của nhiễm HIV lan truyền qua yếu tố VIII cô đặc và nhiều người đã bị AIDS.

Rối loạn chất lượng tiểu cầu mắc phải

Tất cả rối loạn tặng sinh tủy đều có thể gây ra những bất thường chức năng tiểu cầu. Có một số những bất thường hóa sinh trong những tiểu cầu này nhưng nguyên nhân của khuynh hướng chẩy máu thì không rõ.

Những rối loạn nội tại tiểu cầu

Khi nghi ngờ một rối loạn nội sinh về chất lượng tiểu cầu, cần phải nghiên cứu đánh giá độ ngưng tập tiểu cầu để có một chẩn đoán đặc hiệu.

Bệnh Von Willebrand

Yếu tố von Willebrand được tổng hợp trong mẫu tiểu cầu và các tế bào nội mô lưu hành trong huyết tương như những đa chuỗi cỡ khố khác nhau. Chỉ những dạng đa chuỗi dài có chức năng trong việc trung gian dính bám tiểu cầu.

Hội chứng tán huyết tăng ure huyết

Bệnh nhân đến với thiếu máu, chảy máu hay suy thận. Suy thận có thể có hoặc không có thiểu niệu. Trái với xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, không có những biểu hiện thần kinh nào ngoài những biểu hiện do tình trạng urê huyết cao.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối là một hội chứng ít gặp đặc trưng bởi bộ năm triệu chứng của thiếu máu huyết tán bệnh động mạch nhỏ, giảm tiểu cầu, những bất thường về thần kinh, sốt và những bất thường của thận.

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn là một bệnh tự miễn trong đó một tự kháng thể IgG được tạo thành gắn vào tiểu cầu. Còn chưa rõ là kháng nguyên nào trên bề mặt tiểu cầu tham gia vào.

Macroglobin máu Waldenstrom

Bệnh biểu hiện một cách âm thầm ở những bệnh nhân ở tuổi 60 - 70. Bệnh nhân thường bị mệt do thiếu máu. Tăng quánh của huyết thanh có thể biểu hiện trên một số mặt.

Bệnh đa u tủy

U tủy là một bệnh của người lớn tuổi (tuổi trung bình lúc bị bệnh là 60). Đa số phàn nàn vì những triệu chứng liên quan đến thiếu máu, đau xương và nhiễm khuẩn. Phần nhiều là đau xương sống, xương sườn.

Bệnh Hodgkin

Đa số bệnh nhân đến vì một khối không đau, thường là ở cổ, Những dấu hiệu khác yêu cầu sự chú ý về y tế là các triệu chứng thể trạng như sốt

U lympho không Hodgkin

Bệnh nhân u lympho không đau thường có hạch to, đau và khu trú hoặc phát triển rộng. Các hạch bạch huyết to có thể ở sau phúc mạc, mạc treo và hố chậu.

Bệnh bạch cầu tế bào tóc

Đa số bệnh nhân bị tăng dần mệt nhọc. Một số khác thường phàn nàn vì triệu chửng có liên quan đến lách to nhiều và một số khác thì được chú ý vì nhiễm khuẩn.

Bệnh bạch cầu thể lympho mạn tính

Những bệnh tăng sinh lympho khác như macroglobulin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu tế bào tóc hay u lympho ở giai đoạn bệnh bạch cầu được phân biệt trên cơ sở hình thái các lympho bào lưu hành và tủy xương.

Bệnh bạch cầu cấp

Thăm khám thấy bệnh nhân xanh xao, xuất huyết dưới da, ban xuất huyết, và nhiều dấu hiệu khác của nhiễm khuẩn, viêm miệng, và phì đại lợi có thể thấy ở những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu thế bạch cầu đơn nhân.

Hội chứng loạn sản tủy

Loạn sản tủy bao gồm nhiều hội chứng không thuần nhất, Những loạn sản tủy không có tăng nguyên bào trong tủy được gọi là thiếu máu kháng điều trị có hoặc không có hồng cầu non chứa sắt

Bệnh bạch cầu thể tủy mạn tính

Bệnh tiến triển thường có sốt mà không có nhiễm khuẩn, đau xương, lách to. Trong các cơn tăng nguyên bào, bệnh nhân có thể bị chẩy máu và nhiễm khuẩn do suy tủy xương.

Xơ tủy

Xơ tủy phát triển ở những người lớn trên 50 tuổi và thường bát đầu âm thầm. Bệnh nhân rất hay thấy yếu mệt do thiếu máu hay cảm giác đầy bụng do lách to. Biểu hiện ít gặp là chảy máu và đau xương.

Bệnh đa hồng cầu tiên phát

Nếu khối hồng cầu tăng, phải xác định tăng này là tiên phát hay thứ phát. Đa hồng cầu tiên phát là một rối loạn của tủy xương đặc trưng bằng sự sản xuất quá mức tự thân của các tế bào dòng hồng cầu.

Bệnh bạch cầu và các rối loạn tăng sinh tủy

Tuy nhiên, những rối loạn này được xếp nhóm cùng nhau vì bệnh có thể tiến triển từ thể này thành thể khác và vì những bệnh lai tạo được xem xét một cách chung

Giảm bạch cầu trung tính

Trường hợp hội chứng Felty dẫn đến nhiễm khuẩn liên tiếp thì cắt lách thường làm giảm loét chân và làm giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn nhưng bất cứ điều trị thế nào thì đều không tăng số lượng bạch cầu trung tính.

Thiếu máu bất sản

Thiếu máu suy tủy là một hoàn cảnh suy giảm tủy xương phát sinh từ tổn thương hay từ những biểu hiện bất thường của tế bào gốc. Tủy xương trở nên giảm sinh và giảm phát triển ba dòng ngoại biên.

Thiếu máu huyết tán vi mạch và huyết tán liên quan nhiễm khuẩn

Thiếu máu huyết tán vi mạch là một nhóm bệnh trong đó xẩy ra sự phân mảnh hồng cầu. Thiếu máu ở nội mạch, gây hemoglobin huyết, hemoglobin niệu và trong những trường hợp nặng methalbumin huyết.

Bệnh ngưng kết tố lạnh

Đa số những trường hợp bệnh ngưng kết tố lạnh mạn tính là không rõ nguyên nhân. Những trường hợp khác thấy phối hợp với macroglobin máu Waldenstrom, trong đó một paraprotein IgM đơn dòng được sản xuất.

Thiếu máu huyết tán tự miễn dịch

Gần một nửa các trường hợp thiếu máu huyết tán tự miễn dịch không rõ nguyên nhân. Bệnh có thể cũng gặp phối hợp với luput ban đỏ hệ thống, bệnh bạch cầu mạn tính thể lympho hay khối u lympho toàn thân.

Thiếu máu hồng cầu hình liềm và các hội chứng liên quan

Mức độ hóa liềm chịu ảnh hưởng của một số những yếu tố, quan trọng hơn cả là nồng độ hemoglobin S trong từng hồng cầu. Hồng cầu bị mất nước làm cho nó nhanh chóng dễ bị tổn thương dẫn đến liềm hóa.

Thiếu men Glucose 6 phosphat dehydrogenase

Bệnh nhân thường vẫn khoẻ, không có thiếu máu mạn tính hay lách to. Huyết tán xẩy ra là kết quả của các stress oxy hóa trên hồng cầu phát sinh ra hoặc bởi nhiễm khuẩn hoặc do dùng một số thuốc nào đó.

Thiếu men Pyruvat kinase

Thiếu men pyruvat kinase rất hiếm, là một bệnh di truyền lặn theo nhiễm sác thể thường, gây thiếu máu huyết tán, thường chỉ ở tuổi niên thiếu. Cùng với thiếu máu, có thể lách to và sỏi mật sắc tố.

Đái huyết sắc tố kịch phát về đêm

Thiếu máu ở những mức độ nặng khác nhau và có thể có hoặc không có tăng hồng cầu lưới. Những bất thường của kính phết máu không giúp cho chẩn đoán và có thể thấy các hồng cầu hình thoi to.

Bệnh hồng cầu hình thoi di truyền

Trong đa số thể bệnh hồng cầu hỉnh thoi di truyền, rối loạn huyết tán nhẹ được bù trừ tốt và chỉ thiếu máu ít hoặc không có. Tuy nhiên, những thể nặng hơn có thể gây thiếu máu, lách to và sỏi sắc tố mật.

Bệnh hồng cầu hình bi di truyền

Thiếu máu ở những mức độ khác nhau và hematocrit có thể bình thường. Bao giờ cũng có tầng hồng cầu lưới, kính phết máu ngoại biên cho thằy có hồng cầu hình bi, hồng câu nhỏ, nhạt màu ở trung tâm.

Thiếu máu huyết tán

Thiếu máu huyết tán là một nhóm bệnh trong đó đời sống hồng cầu bị giảm ngắn, hoặc từng thời kì hoặc liên tục. Tủy xương có khả năng tăng sản xuất hồng cầu lên gấp 8 lần để đáp ứng với đời sống hồng cầu bị giảm.

Bất sản hồng cầu thuần túy

Bất sản hồng cầu thuần tuý mắc phải ở người trưởng thành là cực kỳ hiếm. Đây có vẻ như là một bệnh tự miễn dịch trong đó một kháng thể IgG đặc biệt đánh vào những tiền thân dòng hồng cầu.

Thiếu acid folic

Acid folic là một thuật ngữ chung dùng cho acid pteroylmonoglutamic. Ở dạng như tetrahydrofolat, nó được dùng như một chất trung gian quan trọng của nhiều phản ứng.

Các thể bệnh Thalassemia

Hội chứng α thalassemia thường gặp, trước hết ở những người từ Đông Nam chẩu Ấ, Trung Quốc, ít gặp hơn ở những người da đen bình thường.

Bệnh học thiếu máu trong bệnh mạn tính

Việc chẩn đoán nhầm thiếu máu thiếu sát có thể xảy ra nếu hiện tượng tăng quá mức được thay thế bằng sắt huyết thanh giảm.

Thiếu máu thiếu sắt

Cũng có thể bị thiếu sắt vì chế độ ăn thiếu thốn nhưng điều này hiếm có ở người trưởng thành. Giảm hấp thụ sắt có thể là nguyên nhân thiếu sắt và thường do phẫu thuật dạ dày.

Thiếu máu hồng cầu non chứa sắt không Hemoglobin

Khi nhiễm độc chì là nguyên nhân, có thể điều trị bằng liệu pháp chelat hóa. Đôi khi bệnh giảm với những liều folat hoặc pyridoxin 200 mg/ngày, nhưng đa số không đáp ứng với điều trị.