Chăm sóc trẻ bị bệnh còi xương

2014-11-05 12:28 PM

Còi xương là một bệnh toàn thân, xảy ra trên một cơ thể mà hê xương c òn đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh, liên quan đến rối loạn chuyển hoá calci và phosphor do thiếu viamin D.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Còi xương là một bệnh toàn thân, xảy ra trên một cơ thể mà hê xương c òn đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh, liên quan đến rối loạn chuyển hoá calci và phosphor do thiếu viamin D.

Như vây, còi xương là một bệnh loãng xương do thiếu vitamin D. Bệnh thường xảy ra ở trẻ bụ bẫm dưới 2 tuổi (vì cơ thể của những đứa trẻ này ph át triển mạnh, xương dài ra nhanh, nhu cầu về calci và phosphor cao, nên khi không có sự lắng đọng calci và phosphor thì xương sẽ bị loãng).

Bênh còi xương có tỷ lê cao ở những nước sương mù, ít có ánh nắng mặt trời. Viêt nam, là nước ở vùng nhiêt đới, nhưng tỷ lê còi xương tương đối cao.

Nguyên nhân

Vai trò của vitamin D

Tham gia vào quá trình hấp thu calci và phosphor từ ruột vào máu.

Đưa calci, phosphor từ máu vào lắng đọng ở xương.

Dưới tác dụng của hormon cân giáp, vitamin D làm tăng tái hấp thu calci và phosphor ở ống lượn xa của thân.

Như vây, hàm lượng calci và phosphor trong cơ thể đủ hay thiếu đều phụ thuộc vào vitamin D. Do đó thiếu vitamin D sẽ dẫn đến bệnh lý loãn g xương, hay còn gọi là còi xương.

Nguồn cung cấp vitamin D

Từ nguồn ăn uống: Thức ăn thường có ít vitamin D. Ví dụ: Vitamin D trong sữa mẹ là 50 đv/lít, trong sữa bò là 10 đv/lít. Chỉ có một số thức ăn giầu vitamin D như dầu gan cá, trứng.

Từ nguồn nội sinh: Là nguồn cung cấp vitamin D chủ yếu. Trên da trẻ em có chất tiền vitamin D là 7 - Dehydrocholesteron. Dưới ánh sáng tử ngoại của mặt trời, tiền vitamin D sẽ chuyển thành vitamin D:

7- Dehydrocholesteron

(Tiền vitamin D)

ánh nắng mặt trời

Vitamin D

(Tia tử ngoại)

Nguyên nhân thiếu vitamin D

Thiếu ánh nắng mặt trời:

Nhà ở chât hẹp, tối tăm.

Không cho trẻ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Mặc quá nhiều quần áo.

Thời tiết sương mù (mùa đông xuân...).

Ăn uống:

Trẻ em thiếu sữa mẹ: Sữa mẹ có tỷ lê calci/phosphor hợp lý, dễ hấp thu và tỷ lê vitamin D cao hơn sữa bò.

Ăn nhiều bột cũng cản trở quá trình hấp thu calci, phosphor.

Yếu tố nguy cơ:

Tuổi: bệnh còi xương hay xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi, là tuổi mà hê xương phát triển mạnh nhất.

Trẻ đẻ non: Có nhu cầu phát triển cao hơn, trong khi đó sự tích luỹ muối khoáng và vitamin D lại kém hơn.

Trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn nhất là ở hê tiêu hoá và hô hấp.

Màu da: Trẻ da màu hay bị còi xương hơn vì có sự cản trở quá trình tổng hợp vitamin D tại da.

Triệu chứng lâm sàng

Dấu hiệu thần kinh

Các dấu hiệu xuất hiên sớm:

Trẻ hay quấy khóc, ngủ không yên giấc, hay giât mình.

Ra mồ hôi trộm cả khi trời lạnh.

Rụng tóc ở gáy - gọi là dấu hiêu “chiếu liếm” thường xảy ra muộn hơn do trẻ ngứa ngáy, kích thích, nằm hay lắc đầu.

Dấu hiệu ở xương

Mềm xương là những dấu hiệu sớm:

Xương sọ: mềm, ấn vào có thể gây lõm như ấn vào quả bóng nhựa; thóp rộng, bờ thóp mềm, châm liền thóp.

Răng: thường mọc châm và mọc lộn xộn.

Mềm xương là biểu hiên của tình trạng bệnh đang tiến triển mạnh, cấp tính. Điêu trị đúng trong giai đoạn này sẽ cho kết quả tốt và không để lại những di chứng nặng nề cho trẻ.

Tăng sinh và biến dạng xương:

Xương sọ: Bướu trán, bướu đỉnh tạo cho đầu có hình “lâp phương”.

Xương hàm: Xương hàm dưới thường châm phát triển, hàm trên chìa ra.

Xương lổng ngực:

Khớp sụn sườn ở phía trước ngực tăng sinh phì đại tạo nên “chuỗi hạt sườn”.

Lổng ngực có thể bị biến dạng dô lên ở phía trước như “ngực gà” hoặc bị lõm vào ở vùng ngang vú tạo nên ngực “hình chuông”.

Xương tay:

Đầu dưới xương trụ, xương quay tăng sinh phì đại tạo nên “vòng cổ tay” .

Xương chân:

Đầu dưới xương chày tăng sinh phì đại tạo thành “vòng cổ chân”.

Do xương loãng, mềm và lại phải tải gần như toàn bộ trọng lượng cơ thể cho nên hai chân của trẻ còi xương sẽ bị cong như hình chữ “O”; cơ yếu nên khi đứng chân thường dựa đầu gối vào nhau tạo nên hình chữ “X”.

Xương sống: Cong, gù vẹo cũng do cơ chế trên.

Tăng sinh và biến dạng xương là hâu quả của sự mềm xương và là những biểu hiên muộn của bệnh còi xương. Những biến dạng trên đây thường để lại những di chứng vĩnh viễn, không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ, mà đối với trẻ gái còn gây nên những khó khăn đáng kể trong sinh đẻ do sự biến dạng của khung châu.

Hê cơ

Trương lực cơ giảm, gây nên hiên tượng bụng ỏng, trẻ châm biết ngổi, đứng, đi. Do vây dễ bị gù vẹo cột sống, chân hình chữ ‘X’.

Hê tạo máu

Trẻ còi xương thường có thiếu máu nhược sắc, da xanh, niêm mạc nhợt, hổng cầu to, gan lách thường to.

Kế hoạch chăm sóc, điều trị và phòng bệnh còi xương

Nhân định

Thăm khám toàn diên để xác định các dấu hiệu còi xương: Các dấu hiệu thần kinh, thóp có rộng không? bờ thóp có mềm không? có biểu hiên hạ calci huyết không? (có co giât không?) các xương có biến dạng không? Sự biến dạng của xương và giảm trương lực cơ đã ảnh hưởng như thế nào đến các chức năng khác như hô hấp, vân động? Khám xem trẻ có thiếu máu không? Trẻ bụ bẫm hay gầy còm? Khai thác nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ...

Chẩn đoán và chăm sóc

Các chẩn đoán chăm sóc có thể gặp:

Ra mổ hôi trộm nhiều, ngủ hay giât mình do rối loạn thần kinh thực vât liên quan đến thiếu vitamin D.

Thóp châm liền do rối loạn quá trình tạo xương vì thiếu Vitamin D.

Đầu to, đầu có nhiều bướu do rối loạn quá trình tạo xương vì thiếu Vitamin D.

Da xanh, niêm mạc nhợt do thiếu máu.

Biến dạng xương do loãng xương.

Co giât, co cứng do hạ calci máu

Can thiệp điều dưỡng

Dựa vào các chẩn đoán điều dưỡng để đưa ra những can thiệp phù hợp:

Với chẩn đoán “Co giât, co cứng do hạ calci máu”:

Can thiệp điều dưỡng trước tiên là thực hiện y lệnh tiêm tĩnh mạch muối calci như calci gluconat hoặc calci clorid 0,5 g. Chú ý: tiêm châm, không để chệch ven!

Các ngày sau: Cho bệnh nhi uống muối calci 1 - 2 g/ngày, đổng thời động viên bệnh nhi “tắm nắng” mỗi ngày 15 - 30 phút vào lúc 7 - 8 giờ sáng hoặc cho bệnh nhân uống Viamin D2 mỗi ngày 10 000 - 20 000 đv trong thời gian 30 đến 60 ngày.

Với chẩn đoán “Ra mổ hôi trộm nhiều, ngủ hay giật mình do rối loạn thần kinh thực vật liên quan đến thiếu vitamin D”:

Dùng Vitamin D2 600.000 - 800.000 đv/ đợt điều trị. Chia đều cho bệnh nhân uống trong vòng 30 - 60 ngày.

Cách dùng vitamin D 600.000 đv/liều duy nhất, hiên nay ít được áp dụng, vì dễ gây ngộ độc.

Nếu không có vitamin D2 để uống hoặc D3 để tiêm thì có thể tạo ra chúng từ tiền vitamin D bằng cách đưa trẻ đi chiếu đèn cực tím trong vòng 15 ngày: ngày đầu 2 phút, sau đó tăng dần mỗi ngày thêm 1 phút để đến ngày cuối (ngày thứ 15) có thời gian chiếu là 20 phút.

Cho bệnh nhi uống muối calci 1 - 2 g/ngày.

Giải thích cho người nhà biết nguyên nhân gây nên các dấu hiệu lâm sàng để họ yên tâm;

Nhắc nhở để người nhà thường xuyên lau mổ hôi nhằm đề phòng nhiễm lạnh cho trẻ.

Nhắc nhở người nhà đảm bảo chế độ ăn đầy đủ, giàu vitamin D cho cả mẹ và con. Cho trẻ tắm nắng thường xuyên khi có điều kiện. Xoá bỏ tập quán ăn kiêng mỡ.

Với chẩn đoán điều dưỡng “Biến dạng xương do loãng xương”:

Mời bác sỹ phẫu thuật chỉnh hình hội chẩn, để có biện pháp điều trị.

Động viên gia đình yên tâm cho con nằm điều trị.

Giữ ấm, giữ vệ sinh nhằm đề phòng bội nhiễm.

Phòng bệnh

Đối với mẹ

Phòng bệnh còi xương cần phải bắt đầu từ khi trẻ còn nằm trong bụng mẹ, vào 3 tháng cuối của thời kỳ phát triển trong bào thai. Trong thời gian này, nên cho mẹ uống mỗi ngày 1000 đv vitamin D hoặc uống 1 liều duy nhất là 100 000 đv, nếu người mẹ không có điều kiện tiếp xúc với ánh nắng mặt trời (mùa đông).

Đối với con

Ăn uống: Tốt nhất là cho trẻ bú mẹ. Khi ăn sam cần đảm bảo đầy đủ các chất đạm, mỡ, đường, vitamin và muối khoáng. Khi cai sữa cần đảm bảo mỗi ngày từ 200 - 400 ml sữa cho trẻ.

Tận dụng các yếu tố thiên nhiên: Cần cho trẻ chơi ở ngoài trời với thời gian thích hợp để trẻ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, nhất là vào buổi sáng.

Phòng bệnh đặc hiệu bằng vitamin D:

Dùng vitamin D mỗi ngày 1000 - 2000 đv liên tục từ 3 đến 6 tháng (tổng liều là 200 000 đv). Có thể dùng 1 liều duy nhất 200 000 đv vào mùa đông.

Dùng vitamin D là biện pháp chắc chắn nhưng phải thận trọng. Đối với trẻ có nguy cơ còi xương, nhưng đẻ ra có thóp trước nhỏ hoặc liền trước 8 tháng tuổi thì không được dùng vitamin D. Đối với những đứa trẻ này, nếu cho dùng vitamin D, thóp sẽ liền quá sớm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của não.

Bài viết cùng chuyên mục

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính không những có tỷ lê mắc bệnh cao mà còn bị mắc nhiều lần trong năm, trung bình 1 trẻ trong 1 năm có thể bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính từ 3 -5 lần.

Tăng sản thượng thận bẩm sinh (CAH)

Tăng sản thượng thận bẩm sinh là một bệnh l{ gia đình có yếu tố di truyền, do rối loạn tổng hợp hocmon vỏ thượng thận, vì thiếu hụt các enzym, chủ yếu trong CAH là 21 hydroxylase.

Đục thủy tinh thể bẩm sinh

Đục thủy tinh thể bẩm sinh là đám mây trong thấu kính của mắt có từ lúc sinh. Thông thường thấu kính của mắt là 1 cấu trúc trong suốt, nó tập trung ánh sáng nhận được từ mắt tới võng mạc.

Chăm sóc trẻ em thiếu máu do thiếu sắt

Thiếu máu là tình trạng giảm lượng hemoglobin (Hb) hay khối hổng cầu trong một đơn vị thể tích máu, hemoglobin hay khối hổng c ầu thấp hơn giới hạn bình thường của người cùng lứa tuổi.

Thiếu máu tan máu tự miễn ở trẻ em

Bệnh thường xảy ra phối hợp với một số bệnh nhiễm khuẩn như viêm gan, viêm phổi do vius, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, hoặc trên cơ sở bị một số bệnh như U lympho Hodgkin, Lupus ban đỏ, hội chứng suy giảm miễn dịch.

Xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát ở trẻ em (ITP)

Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát (ITP) là các trường hợp xuất huyết giảm tiểu cầu tiên phát, không rõ nguyên nhân, loại trừ các trường hợp giảm tiểu cầu thứ phát.

Lõm lồng ngực bẩm sinh

Lõm lồng ngực bẩm sinh là một dị tật thành ngực trong đó xương ức và các xương sườn dưới bị lõm về phía sau. Tỷ lệ trẻ trai / trẻ gái = 3/1. 90% các trường hợp có biểu hiện bệnh ở lứa tuổi 1 tuổi.

Viêm màng não do lao ở trẻ em

Từ ngày thứ 5 xuất viện, các dấu hiệu và triệu chứng của màng não như đau đầu, buồn nôn, nôn vọt, ỉa lỏng (hoặc táo bón) thậm chí co giật. Khám có thể thấy các dấu hiệu màng não như gáy cứng, Kerning và thóp phồng.

Đặc điểm hệ tuần hoàn trẻ em

Tim của trẻ sơ sinh tương đối to hơn so với trẻ lớn và chiếm 0,8% trọng lượng cơ thể. Sau 1 tuổi, sự phát triển của tim tỷ lê thuận với sự phát triển về chiều cao, cân nặng của trẻ và chiếm 0,5% trọng lượng cơ thể.

Chẩn đoán và xử trí co giật ở trẻ em

Ở trẻ em, vì nguyên nhân gây co giật rất phong phú nên hình thái lâm sàng cũng rất đa dạng, do đó người thầy thuốc phải nắm vững cơ chế bệnh sinh, cách phân loại.

Bệnh học nhi khoa bệnh sởi

Hàng năm toàn thế giới có khoảng 50 triệu trẻ bị sởi, trong đó ước tính khoảng 722.000 trẻ nhở hơn 5 tuổi tử vong do các biến chứng từ sởi và 40% tử vong do suy dinh dưỡng.

Viêm tủy cắt ngang ở trẻ em

Viêm tuỷ cắt ngang là hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi thương tổn cấp tính một đoạn tuỷ sống, biểu hiện liệt vận động, mất cảm giác dưới nơi tổn thương, rối loạn cơ tròn.

Đặc điểm da cơ xương trẻ em

Trong những tháng đầu sau đẻ, trẻ có hiện tượng tăng trương lực cơ sinh lý, trong đó trương lực của các cơ co tăng hơn các cơ duỗi. Do vây, trẻ thường nằm trong tư thế chân co, tay co, bàn tay nắm chặt.

Chăm sóc trẻ bị bệnh thấp tim

Không phải bất kỳ trẻ em nào nhiễm liên cầu trùng beta tan huyết nhóm A cũng bị bệnh thấp tim. Trong số 90-95% trẻ em bị viêm họng do liên cầu, chỉ có 0,2 -3% trẻ bị thấp tim.

Bệnh học nhiễm trùng tiết niệu ở trẻ em

Đau một bên hoặc cả hai bên lan xuống dưới; sờ, vỗ vào vùng hố thắt lưng bệnh nhân đau; có khi bệnh nhân đau như cơn đau quặn thận. Có khi sờ thấy thận to.

Co giật sơ sinh

Khác với trẻ lớn, co giật ở trẻ sơ sinh thường có nguyên nhân rõ ràng, do đó tìm và điều trị nguyên nhân là rất quan trọng khi xử trí co giật ở trẻ sơ sinh.

Tham vấn cho bà mẹ về các vấn đề bú mẹ

Nếu trẻ không được bú mẹ, tham vấn nuôi con bằng sữa mẹ và phục hổi sự tiết sữa. Nếu bà mẹ muốn, nhân viên tham vấn sữa mẹ có thể giúp bà tháo gỡ khó khăn và bắt đầu cho bú mẹ trở lại.

Trầm cảm ở trẻ em

Sững sờ, hoang tưởng và ảo giác có thể gặp trong trầm cảm nặng. Nội dung hoang tưởng thường là có tội, không xứng đáng, bị truy hại hoặc không tồn tại.

Xuất huyết màng não muộn do thiếu Vitamin K ở trẻ em

Xuất huyết não màng não muộn xảy ra ở trẻ từ 15 ngày tuổi đến 6 tháng tuổi và nhiều nhất là ở trong khoảng từ 1 đến 2 tháng tuổi. Thường các triệu chứng xuất hiện đột ngột và nhanh nên.

Sử dụng thuốc trong nhi khoa

Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, cần nắm rõ đặc điêm sinh lý, giải phẩu và tình trạng bệnh lý của trẻ. Chức năng gan, thận của trẻ chưa hoàn thiện => Khả năng chuyển hóa, tích lũy, đào thải kém-> dễ ngộ độc thuốc.

Bệnh học HIV AIDS ở trẻ em

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của bệnh do HIV là các biểu hiện của nhiễm trùng cơ hội và các bệnh u. Biểu hiện lâm sàng rất thay đổi ở nhiều cơ quan, dễ nhầm với nhiều bệnh.

Đặc điểm hệ hô hấp trẻ em

Các xoang hàm đến 2 tuổi mới phát triển, xoang sàng đã xuất hiên từ khi mới sinh nhưng tế bào chưa biệt hoá đầy đủ, vì vây trẻ nhỏ ít khi bị viêm xoang.

U tuỷ thượng thận ở trẻ em

U tuỷ thượng thận là u tiết ra Catecholamine quá thừa từ u vùng tuỷ thượng thận sinh ra. Nhưng cũng có thể phát sinh từ nhiều nơi khác thuộc hệ thống giao cảm của chuỗi hạch giao cảm.

Bệnh sởi ở trẻ em

Sởi là bệnh được mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ X do y sĩ Persan Rhazes. Đến thế kỷ thứ XVIII, Home mới có những công trình thực nghiệm về sự truyền bệnh.

Cách dùng thuốc cho trẻ em

Không được dùng hoặc phải rất thận trọng khi dùng cho trẻ những loại thuốc gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cơ thể, vì trẻ em là những cơ thể đang phát triển.