Chảy máu đường tiêu hóa

2011-10-23 09:35 AM

Chảy máu đường tiêu hoá là một tình trạng rất hay gặp trong các bệnh về tiêu hoá, do rất nhiều nguyên nhân gây nên. Chảy máu ở đây rất nhiều và nhanh có thể  đe doạ đến tính mạng người bệnh, đòi hỏi phải theo dõi kỹ càng xử trí kịp thời.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Chảy máu đường tiêu hoá là một tình trạng rất hay gặp trong các bệnh về tiêu hoá, do rất nhiều nguyên nhân gây nên.

Chảy máu ở đây rất nhiều và nhanh có thể  đe doạ đến tính mạng người bệnh, đòi hỏi phải theo dõi kỹ càng xử trí kịp thời.

Chảy máu đượng tiêu hoá là hiện tượng máu thoát ra khỏi mạch máu và chảy vào ống tiêu hoá. Máu được tống ra ngoài bằng cách nôn hay ỉa ra máu.

Ống tiêu hoá đi từ miệng đến hậu môn, nhưng những chảy máu ở miệng hay hậu môn không xếp vào đây, nôn và ỉa ra máu là hiện tượng chủ yếu của chảy máu đường tiêu hoá.

Triệu chứng

Những triệu chứng trực tiếp:

Nôn ra máu và ỉa ra máu.

Nôn ra máu

Máu từ thực quản, dạ dày và phần trên tá tràng được ra ngoài qua đường miệng.

Triệu chứng chức năng: Trước khi nôn, người bệnh thấy nôn nao. Khó chịu, lợm giọng, buồn nôn và nôn. Có khi nôn ra rất nhiều và nhanh chóng không dấu hiệu báo trước - nôn do vỡ tĩnh mạch thực quản.

Tính chất của máu:

Máu có thể còn tươi như trong vỡ tĩnh mạch thực quản vì máu chảy ra được nôn ngay.

Máu đen lẫn máu cục và thức ăn vì máu chảy ra còn đọng ở dạ dày một thời gian mới nôn ra.

Nước màu nâu,hồng - khi máu chảy ít đọng lại lâu trong dạ dày, bị hoà loãng và thay đổi bởi dịch dạ dày và thức ăn.

Chẩn đoán phân biệt:

Ho ra máu: Máu ra ngay sau khi ho, máu đỏ tươi có lẫn bọt. Máu ra nhiều lần rải rác trong nhiều ngày có phản ứng kiềm.

Chảy máu cam: Máu chảy qua đường mũi đỏ tươi và khạc cả ra đường mồm.

Người bệnh có thể nuốt vào và nôn ra máu cục: Phải hỏi tiền sử bệnh, kết hợp thăm khám tai, mũi,họng.

Uống những thuốc có màu đen (than) ăn tiết canh: Cần xem kỹ  chất nôn và hỏi người bệnh.

Ỉa ra máu

Là máu từ ống tiêu hoá  tống ra ngoài qua đường  hậu môn, máu chảy ra có thể từ thực quản trở xuống đến trực tràng và tuỳ theo từng vị  trí khác nhau, tính chất của máu ỉa ra sẽ rất khác nhau.

Triệu chứng chức năng: người bệnh có thể thấy nôn nao,khó chịu, đau bụng, sôi bụng, mót đại tiện, cũng có khi không thấy gì đặc biệt.

Tính chất của máu:

Máu đỏ tươi: Có thể thành tia dinh vào phân, chảy thành tia, chảy nhỏ gịot sau khi đại tiện, hoặc đại tiện hoàn toàn là máu không có phân.

Máu đỏ tươi thường là do chảy từ phần thấp của bộ máy tiêu hoá: trực tràng, đại tràng, hồi tràng.. nhưng cũng có khi ở phần cao như dạ dày, tá tràng vì chảy nhiều và ồ ạt nên qua ống tiêu hoá chưa kịp phân huỷ.

Máu đen: Do máu chảy từ phần trên của ống tiêu hoá: thực quản, dạ dày, tá tràng… có thời gian lưu lại lâu trong ống tiêu hoá và vi khuẩn phân huỷ trở nên đen. Phân đen có thể khô, đóng thành khuôn như bã cà ph, bồ hóng hoặc lỏng sền sệt như nhựa đường, thấm vào bông hoặc giấy thấy  có ánh hồng hay tím, cho vào nước làm nước có màu hơi hồng.

Phân đen thường có mùi khẳm vì  quá trình lên men thối ở ruột. Khi máu chảy ít và từ từ làm cho phân không đen nhiều, ảnh hưởng ít đến toàn thể  trạng người bệnh, khó nhận định. Muốn xác định cần xem kỹ phân và nếu cần thì làm phản ứng Weber-Meyer để tìm máu trong phân.

Chẩn đoán phân biệt: Ỉa phân đen cần phân biệt với:

Uống thuốc có bitmut, chất sắt, than thảo mộc…phân cũng đen nhưng có màu xám hoặc hơi xanh. Khi ngưng dùng thuốc phân trở nên vàng.

Phân đen do ỉa ra nhiều mật:  Lúc đầu màu xanh sau biến thành màu xanh đen.

Phân sẫm màu của người táo bón: Phân rắn có màu sẫm nhưng không đen.

Nói chung trong những trường hợp nghi ngờ cần làm phản ứng Weber - Meyer.

Những triệu chứng  gián tiếp:

Tuỳ theo số lượng máu và thời gian chảy máu mà ảnh hưởng đến toàn trạng người bệnh có khác nhau - tình trạng mất máu cấp tính hay kéo dài. Ta chia làm 3 loại.

Chảy máu nhẹ

Máu chảy ra ít, khoảng vài chục đến vài trăm phần khối. Người bệnh chỉ thấy hơi mệt mỏi, không có thay đổi rõ rệt về toàn trạng, mạch huyết áp; các xét nghiệm về máu chưa thay đổi.

Nói chung, không nên chỉ dựa vào số máu nôn hoặc ỉa ra ngoài mà đánh giá mức độ nặng nhẹ, cần phải dựa vào các dấu hiệu toàn thân,mạch huyết áp và các xét nghiệm về máu.

Chảy máu trung bình và nặng

Vì lượng máu ra nhiều trong một thời gian ngắn nên sẽ xuất hiện tình trạng  mất máu cấp tính.

Tình trạng thiếu máu:

Da, niêm mạc hơi nhạt.

Chóng mặt, hoa mắt.

Tình trạng truỵ tim mạch:

Vã mồ hôi, lạnh chân tay.

Mạch nhanh  nhỏ, có khi không lấy được.

Huyết áp hạ.

Thở nhanh, có khi sốt nhẹ.

Đái ít, có khi vô niệu.

Làm các xét nghiệm thấy:

Hồng cầu và lượng sắc tố giảm nhanh chóng.

Thể tích hồng cầu giảm.

Urê máu tăng.

Amoniac máu tăng (nếu chảy máu do xơ gan).

Diễn biến nói chung: Nếu máu chảy ra nhiều và nhanh, có khi nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Cần phải theo dõi kỹ để có thái độ xử lý  kịp thời. Theo dõi chủ yếu dựa vào:

Tình trạng toàn thân, mạch huyết áp.

Lượng máu chảy ra.

Các xét nghiệm về máu.

Chảy máu ít nhưng kéo dài:

Tuy không gây nên tình trạng mất máu cấp tính nhưng dẫn đến tình trạng thiếu máu - da niêm mạc nhợt nhạt, nhọc mệt, suy tim do thiếu máu. Xét nghiệm máu sẽ thấy tình trạng thiếu máu rõ rệt.

Những triệu chứng có liên quan đến nguyên nhân

Tuỳ theo mỗi nguyên nhân khác nhau gây chảy máu, sẽ có những triệu chứng khác nhau:

Hội chứng dạ dày: 

Chảy máu do loét dạ dày, hành tá tràng.

Hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cứa:

Chảy máu do vỡ tĩnh mạch, thực quản.

Hội chứng chảy máu: 

Do các bệnh máu.

Hội chứng đại tràng:

Chảy máu do tổn thương ở đại tràng…

Do đó muốn tìm nguyên nhân chảy máu, cần phải hỏi kỹ bệnh nhân, thăm khám toàn diện và nếu cần, phải kết hợp với các phương pháp cận lâm sàng như xquang, sinh hoá, soi trong….

Nguyên nhân

Chảy máu từ hành tá tràng trở lên đều có thể gây nên nôn ra máu cũng như ỉa ra máu, trái lại chảy máu từ dưới hành tá tràng trở xuống chỉ gây ỉa ra máu.

Những nguyên nhân gây nôn ra máu

Những nguyên nhân gây nôn ra máu, đồng thời cũng có thể gây nên ỉa ra máu. Ta chia làm ba loại chính:

Những nguyên nhân thường gặp:

Loét dạ dày hành tá tràng: Đó là nguyên nhân hay gặp nhất, máu chảy ra dưới hình thức - nôn ra máu, ỉa phân đen và ỉa phân đen tiềm tàng.

Loét hành tá tràng hay gây chảy máu hơn loét dạ dày.

Đặc tính của các loại chảy máu do loét dạ dày và hành tá tràng là:

Khối lượng máu thường nhiều.

Xảy  ra nhiều lần có thể gây ra tình trạng thiếu máu trầm trọng.

Kết hợp với các triệu chứng khác như đau ở vùng thượng vị có chu kỳ, hình ảnh xquang ãe xác định chẩn đoán. Nhưng cũng có khi chảy máu là dấu hiệu đầu tiên của bệnh.

Do tăng áp lực tĩnh mạch cửa: Hiện tượng này gặp trong các bệnh xơ gan, hội chứng Bannti, hội chứng Budd- Chiari (tắc tĩnh mạch trên gan) - máu ở hệ tĩnh mạch cửa bị cản trở sẽ qua những đường bàng hệ để trở về tĩnh mạch chủ dưới phần bàng hệ phình dãn và tăng áp lực. Đặc điểm của loại chảy máu này là:

Máu tươi, màu hơi đen vì là máu tĩnh mạch.

Khối lượng thường rất nhiều và không lẫn thức ăn.

Kết hợp với các triệu chứng khác như tuần hàon bàng hệ dưới da bụng, cổ trướng, lách to. Về xét nghiệm, thấy lượng amoniac trong máu tăng cao (bình thường 100microgam%) và chụp Xquang thấy hiện tượng giãn tĩnh mạch thực quản.

Những nguyên nhân ít gặp hơn:

Do ung thư dạ dày: Máu nôn ra thường là màu đen, khối lượng máu ra thường ít nhưng rất nhiều lần. Chảy máu ở đây thường tiềm tàng, là phân đen hay gặp hơn nôn ra máu.

Do viêm dạ dày: Trong các bệnh viêm dạ dày thì loại viêm dạ dày chảy máu và loại viêm phì đại hay gây chảy máu. Thường là chảy máu nhiều nơi trong niêm mạch dạ dày, khối lượng máu ra có thể nhiều.

Do các bệnh máu: Một số bệnh máu do những cơ chế khác nhau có thể chảy máu ở nhiều nơi - chân răng, mũi, dưới da, ruột, niêm mạc dạ dày…

Bệnh bạch cầu đa sinh cấp và mạn: Chảy máu do thiếu tiểu cầu, gây chảy máu.

Bệnh suy tuỷ xương: Tuỷ xương không sản xuất đầy đủ tiểu cầu gây chảy máu.

Bệnh máu chậm đông (hemophilie): Thiếu các yếu tố tạo nên protrombin, một thành phần làm đông máu.

Bệnh máu chảy lâu (hémogénie): Thiếu về chất hay về lượng tiểu cầu, làm máu chảy kéo dài.

Do suy tim: Gan đóng vao trò quan trọng trong cơ chế đông máu vì góp phần tạo ra protrombin và gây chảy máu ở nhiều nơi, trong đó có niêm mạc của dạ dày.

Do dùng một số thuốc:

Một số thuốc có tác dụng kích thích niêm mạc dạ dày gay chảy máu nhất là dạ   ày đã bị viêm hoặc loét sẵn - những thuốc hay gây chảy máu dạ dày như aspirin và các loại axit salixylie, phenyl butazon…

Những thuốc loại cocticoit: Đối với người viêm hoặc loét dạ dày, dùng thuốc này thì các ổ loét càng tiến triển thêm nặng và gây chảy máu.

Những thuốc chống đông máu (heparin, dicumarol) cũng có thể gây chảy máu dạ dày, nếu dùng quá nhiều và nhất là đối với những người đã bị viêm loét từ trước.

Đối với những loại thuốc kể trên, chống chỉ định dùng cho những người bệnh  bị viêm loét dạ dày và hành tá tràng.

Những nguyên nhân hiếm gặp:

Chảy máu dạ dày trong hội chứng Malôri-Oét: Nôn nhiều do bất kỳ nguyên nhân gì, khi nôn quá nhiều, niêm mạc dạ dày có thể nứt và trợt, gây chảy máu.

Do một số bệnh dã dày: U lành tính, u mạch máu, thoát vị dạ dày.

Do các tổn thương viêm, lóet và trợt của thực quản.

Do ngộ độc:

Ngộ độc nội sinh: Urê máu cao. Máu nôn ra thường dưới dạng nước đen.

Ngộ độc ngoại sinh: Ngộ độc chì, thuỷ ngân…

Những bệnh nhiễm khuẩn và dị ứng: Có thể gây xung huyết và gây chảy máu ở niêm mạc của dạ dày (cúm ác tính, dị ứng nặng toàn thân,hội chứng Schonlein-Hénoch).

Những nguyên nhân gây ỉa ra máu

Tất cả những nguyên nhân gây chảy máu từ thực quản xuống ruột non đều gây ỉa phân đen. Những tổn thương ở đại tràng, gây ỉa máu tươi,  càng gần trực tràng máu càng tươi.

Những nguyên nhân gây ỉa ra máu:

tất cả những nguyên nhân gây nôn ra máu kể trên đều dẫn tới ỉa máu đen. Ngoài ra có thể gặp các nguyên nhân khác.

Thương hàn: Do loét ở ruột cuối, thường xảy ra chậm sau một thời gian sốt kéo dài. Khối lượng máu thường nhiều và kéo dài, tiến triển theo bệnh, khi bệnh khỏi thì cũng hết ỉa ra máu. Máu cũng có thể đỏ, nếu chảy nhanh, nhiều và ồ ạt.

Những bệnh về gan mật: Gan đứt, vỡ mạch máu ở gan và đường mật (apxe gan, ung thư gan,ung thư đường mật, ung thư bóng Vater), máu chảy qua đường mật xuống ruột và gây ỉa
máu đen.

Ỉa máu tươi:

Nguyên nhân thường gặp:

Trĩ nội: Máu tươi dính theo phân và nhỏ giọt sau khi đại tiện. Thăm trực tràng sẽ thấy tĩnh mạch trực tràng giãn và nổi ngoằn ngoèo thành từnng búi, có máu ra theo tay

Ung thư trực tràng: Hay gặp ỏ người già, triệu chứng chủ yếu là ỉa máu tươi kéo   ài, máu ra từng giọt hay từng tia. Thăm và soi trực tràng thấy khối u.

Ung thư đại tràng: Ỉa máu thường ít và dính theo phân. Có hội chứng bán tắc ruột và khám thấy khối u.

Kiết lỵ: Máu thường lẫn với phân, kèm theo có mũi, ỉa nhiều lần trong ngày, đau bụng, mót rặn và đau hậu môn khi đi ỉa.

Lồng ruột: Ngoài hội chứng tắc ruột, đại tiện ra những giọt má tươi, thăm trực tràng có máu theo tay.

Nguyên nhân hiếm gặp:

Viêm đại trực tràng chảy máu: Có thễ rỉ máu theo phân có lẫn ít mủ thường chảy máu nhiều.

Nhồi máu ruột non do tắc mạch mạc treo: Đau quặn bụng dữ dội và ỉa ra máu, máu có thể đen hoặc tươi.

Polip đại, trực tràng: Ỉa ra máu tươi thành giọt, đôi khi thành tia. Soi và chụp  đại tràng có thể thấy Pôlip.

Tình trạng dị ứng: Làm xung huyết niêm mạc trực tràng cũng có thể gây ra ỉa máu tươi.

Chảy máu đường tiêu hoá rất thường gặp ở các bệnh viện, đó là một trường hợp cấp cứu, đòi hỏi phải có thái độ xử trí nhanh chóng, kịp thời. Muốn cấp cứu tốt, điều trị tốt. Theo dõi là một khâu rất quan trọng đối với chảy máu đường tiêu hoá.

Bài viết cùng chuyên mục

Bập bềnh thận: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Không có bằng chứng về giá trị của nghiệm pháp bập bềnh thận. Trên thực tế, cảm nhận này thường không rõ ràng, do vậy nên kết hợp các phương pháp chẩn đoán khác.

Xuất huyết tiêu hóa

Xuất huyết tiêu hoá là hiện tượng máu thoát ra khỏi lòng mạch chảy vào ống tiêu hoá, biểu hiện lâm sàng là nôn ra máu đi ngoài ra máu.

Phản xạ cơ khép chéo: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Phản xạ cơ khép chéo, tương tự các phản xạ lan tỏa khác, là một triệu chứng của tăng phản xạ trong rối loạn chức năng nơ ron vận động trên. Đây là một phản xạ lan tỏa.

Dấu nảy thất phải: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Tăng gánh gây phì đại thất phải và làm cho thất phải nằm sát với thành ngực. Trong hở hai lá, nhĩ trái trở thành một vật đệm vùng đáy tim do tăng thể tích ở thì tâm thu đẩy tâm thất ra phía trước.

Thăm dò chức năng tim

Tuỳ mức độ thích ứng mà chúng ta đánh giá khả năng làm việc của tim, vì thể người ta tìm ra các phương pháp để thăm dò chức năng tim.

Gan to trong bệnh tim: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Trong suy tim sung huyết, cung lượng tim thấp hay suy giảm đổ đầy thất phải dẫn đến dồn áp lực ngược vào tĩnh mạch chủ dưới và các tĩnh mạch gan. Do tăng áp lực tĩnh mạch, gan trở nên ứ máu và to ra.

Liệt chu kỳ trong bệnh nội tiết: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Liệt chu kỳ là dấu hiệu hiếm, gây bệnh với tỉ lệ từ 2% đến 20%, và 0,1%, 0,2% theo thứ tự dân số ở châu Á và châu Mĩ. Không có sự tương quan giữa mức độ nặng của cường giáp và biểu hiện lâm sàng của tình trạng liệt.

Âm thổi khi nghe tim: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Tiếng thổi ở tim là một âm thanh thổi, rít hoặc rít được nghe thấy trong một nhịp tim. Âm thanh được tạo ra bởi dòng máu hỗn loạn qua các van tim hoặc gần tim.

Ban cánh bướm gò má: tại sao và cơ chế hình thành

Khi hệ thống miễn dịch phản ứng thiệt hại từ tia UV, viêm tự miễn có thể xảy ra ở khu vực đó. Tại sao nó thường có hình dạng của một con bướm vẫn chưa rõ ràng.

Viêm mạch mạng xanh tím: tại sao và cơ chế hình thành

Mặc dù có nhiều nguyên nhân tiềm năng, viêm mạng mạch xanh tím vẫn là một dấu hiệu có giá trị, là một chẩn đoán loại trừ và các nguyên nhân khác cần được loại trừ đầu tiên.

Kiểu hình của bệnh Cushing: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Béo phì trung tâm được xem là triệu chứng phổ biến nhất, xuất hiện trên khoảng 90% bệnh nhân, theo 1 số tài liệu. Khuôn mặt hình mặt trăng gặp trong 67–100% bệnh nhân.

Mất liên động: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Mất liên động là một triệu chứng bán cầu tiểu não cùng bên. Các tổn thương bán cầu tiểu não bên và trung gian dẫn đến các chi cùng bên cử động chậm chạp, mất phối hợp và vụng về khi thực hiện các động tác luân phiên nhanh.

Khó thở khi đứng: nguyên nhân và cơ chế hình thành

Thông thường, nối tắt mạch máu từ hệ thống tĩnh mạch sang hệ thống động mạch gây nên khó thở ở tư thế đứng. Có nhiều cơ chế sinh lý cho điều này.

Đồng tử không đều: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Đồng tử không đều có thể là biểu hiện của tình trạng chết người (ví dụ phình động mạch thông sau có liên quan đến xuất huyết dưới màng nhện) hoặc tình trạng đe dọa mắt cấp tính (ví dụ glôcôm góc đóng cấp tính).

Mụn cơm có cuống (acrochordon): dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Giá trị khá hạn chế, vì triệu chứng này khá thường gặp trong dân cư nói chung. Người ta nhận ra triệu chứng này có tỉ lệ xuất hiện nhiều hơn ở bệnh nhân đái tháo đường, thừa cân cũng như to đầu chi.

Teo cơ do đái tháo đường: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy quá trình xâm nhập của viêm, globulin miễn dịch và bổ thể và các mạch máu nhỏ, gợi ý rằng viêm mao mạch qua trung gian miễn dịch có thể là nguyên nhân.

Tiếng tim thứ nhất mạnh: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Bình thường, các lá của van hai lá và van ba lá có thời gian để di chuyển về phía nhau trước khi tim co bóp. Với khoảng PR ngắn các lá này vẫn còn xa nhau vào lúc tim bắt đầu co bóp, vì vậy chúng tạo ra tiếng đóng rất mạnh từ một khoảng cách xa và làm cho T1 mạnh.

Bướu giáp: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Sự kích thích TSH của tế bào tuyến giáp gây tăng sản tế bào thứ phát nhằm làm giảm nồng độ hormone giáp bởi những rối loạn với việc sản xuất và tiết chế hormone giáp.

Âm thổi tâm trương: âm thổi hở van động mạch phổi

Âm thổi hở van động mạch phổi gây ra do lá van động mạch phổi bị mất chức năng cho phép máu lưu thông ngược từ động mạch phổi vào tâm thất phải trong kì tâm trương.

Cách khám một người bệnh nội tiết

Tuyến nội tiết là những tuyến tiết ra Hocmon, các chất này đổ vào các mạch máu đi của tuyến, Chính ngay cả ở tế bào của tuyến, các tĩnh mạch nằm trong tuyến.

Phản xạ nắm: dấu hiệu triệu chứng và nguyên nhân

Phản xạ nắm dương tính dự đoán tổn thương vùng thùy trán, nhân sâu hoặc chất trắng dưới vỏ, phản xạ nắm xuất hiện ở trẻ sơ sinh bình thường từ khoảng 25 tuần đến 6 tháng tuổi.

Bàn chân Charcot: tại sao và cơ chế hình thành

Sự biểu hiện của chính triệu chứng là không đặc hiệu. Tuy nhiên, mới khởi phát đau, ở một bệnh nhân tiểu đường được biết đến với bệnh thần kinh là một chẩn đoán không thể bỏ qua.

Hội chứng ống cổ tay

Hội chứng ống cổ tay được James Paget mô tả từ giữa thế kỷ 18. Đây là một rối loạn thần kinh ngoại vi thường gặp nhất, khoảng 3% người trưởng thành ở Mỹ có biểu hiện hội chứng này.

Triệu chứng học tuyến yên

Tuyến yên là một tuyến quan trọng, người ta ví nó như một “nhạc trưởng” có tác dụng điều chỉnh sự hoạt động của các tuyến nội tiết khác. Do đó những thay đổi về chức năng cũng như thay đổi về kích thước của nó đều có thể gây ra những triệu chứng.

Ho ra máu: triệu chứng cơ năng hô hấp

Hiện nay, phân loại mức độ nặng nhẹ của ho ra máu chưa thống nhất, trong thực tế, thường có 2 khả năng xảy ra đó là bệnh nhân đang ho, mới ho ra máu trong vài giờ hoặc đã ho ra máu trên 24 h