Rối loạn xác định giới hành vi dị thường

2013-08-07 10:47 PM

Để giải thích mong muốn thay đổi dương vật, Ovesey & Person nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Ngược lại với loạn dục cải trang khi người đàn ông mặc đồ như phụ nữ nhưng anh ta vẫn xác định mình là đàn ông, những người bị rối loạn xác định giới (GID-gender identity disorder) tin rằng họ bị sinh nhầm giới tính. DSM-IV-TR đã định nghĩa:

Ý nghĩ dai dẳng mình là người giới khác

Luôn cảm thấy khó chịu với giới của mình hoặc cảm nhận không phù hợp về vai trò giới của mình

Có các rối loạn stress đáng kể về mặt lâm sàng hoặc có những tổn thiệt về mặt xã hội, nghề nghiệp hoặc những lĩnh vực quan trọng khác.

Ở độ tuổi thanh niên và tuổi trưởng thành, GID được thể hiện với những dấu hiệu ban đầu như tin rằng mình bị sinh “nhầm giới” và mong muốn xoá bỏ những tính cách giới ban đầu. Nhiều người bị rối loạn này đã đề nghị được phẫu thuật để chuyển đổi giới mà họ cho là phù hợp. Họ trở thành loạn dục cải trang. Nhừng người khác không thay đổi cơ bản như vậy song họ  cũng cố mặc những quần áo để người khác dễ ngộ nhận họ là người giới khác- giới mà họ mong muốn. Những người có GID thường tìm cách gây sự chú ý tình dục của người cùng giới. Tuy nhiên cũng chưa có tỉ lệ cụ thể về những trường hợp này.

Hầu hết những người có GID, trong tiền sử thời nhỏ thường xuyên có những hành vi khác giới. Các cậu bé có thể là không chơi với bạn con trai mà tích chơi với đám con gái hơn. Chúng thường mặc quần áo nữ và muốn lớn lên thành con gái. Một số còn tuyên bố rằng dương vật và hòn dái chẳng qua là sự nhầm lẫn và chúng hy vọng rằng khi lớn, bằng cách nào đó nó sẽ chuyển thành âm hộ. Các cô bé thì không chịu đái ngồi, chúng không muốn vú to ra   và có kinh nguyệt. Chúng cũng có thể từ chối mặc quần áo dành cho con gái. Green và Blanchard (1995) cho rằng có thể phát hiện được những thái độ và hành vi như vậy ở độ tuổi dưới 3 tuổi. Tuy vậy những đặc điểm này không phải là bất biến. Nhiều trẻ lớn lên sẽ có những hành vi phù hợp giới hơn.

Nguyên nhân rối loạn xác định giới

Các yếu tố sinh học

Người ta chưa thấy có những yếu tố di truyền của GID. Những nghiên cứu về hormon sinh dục cũng rất khó đưa ra kết luận bởi lẽ có nhiều người có GID đã dùng hormon giới tính đối lập theo một chương trình trị liệu hoặc ngoài chợ đen. Mặc dù có những khó khăn về giải thích song chưa có cứ liệu nào   ủng hộ giả thuyết hormon. Khái quát chung các cứ liệu, Gladue (1985) cho thấy có rất ít sự khác biệt về hormon giữa những người đàn ông có GID, đàn ông bình thường và những người tình dục đồng giới. ở phụ nữ, kết quả cũng tương tự như vậy. Meyer - Bahlung (1979) chỉ tìm thấy một số phụ nữ có GID là có nồng độ hormon nam cao, hầu hết là bình thường.

Một cách giải thích khác về hormon thời kỳ trước khi sinh có thể ảnh hưởng đến hành vi và có thể cả đến xác định giới. Điều này có thể xảy ra đối với cả 2 giới. Con gái của những phụ nữ trong thời kỳ mang thai dùng hormon nam giới để phòng băng huyết tử cung có xu hướng tăng cao những hành vi nam tính ở độ tuổi nhà trẻ- mẫu giáo (Ehorhardt & Money, 1967). Những cậu bé có mẹ dùng hormon nữ trong thời kỳ mang thai thì những hành vi nam tính ít hơn so với các bạn cùng lứa, ít tham gia vào những trò chơi của con trai (Yalom và cs., 1973). Tuy nhiên chưa có bằng chứng về sự chán ghét giới tính của mình ở cả 2 nhóm.

Mặc dù đã có không ít nghiên cứu thất bại trong việc tìm kiếm sự khác biệt giữa não của những người GID và những người không có song cũng đã có một nghiên cứu cũng đã thu được những bằng chứng cho phép nghĩ đến cơ sở thần kinh của rối loạn này. Zhou cs. (1995) đã tiến hành nghiên cứu sinh thiết não ở 6 người đã chuyển đổi giới từ nam sang nữ. Các tác giả đã phát hiện thấy khu vực nghèo tế bào vân tận cùng (Stria terminalis) và nhỏ hơn đáng kể so với những người đàn ông khác. Quả vậy, kích thước của vân tận cùng được tìm thấy điển hình với phụ nữ, chỉ bằng một nửa so với nam giới. Tuy nhiên ý nghĩa thực tiễn của điều này vẫn chưa rõ ràng, mặc dù vân tận cùng được biết là có tham gia điều hành những hoát động tình dục ở chuột đực. Cũng có thể điều này đóng vai trò nhất định trong rối loạn xác định giới.

Những giải thích phân tâm học

Phân tâm học cho rằng những người đàn ông loạn dục chuyển đổi giới có sự xác định giới không rõ ràng. Theo Ovesey và Person (1973), loạn dục chuyển đổi giới ở đàn ông khởi nguồn từ những lo âu bị cách ly thời nhỏ, trước khi có được sự xác định giới. Để nhằm giải toả lo âu, cá nhân đã có huyễn tưởng đồng nhất với mẹ. Bằng cách đó, mẹ và con được hợp nhất và bằng cách này, nguy cơ cách ly đã được loại trừ. Trong ý nghĩ của những người loạn dục chuyển đổi giới anh ta sẽ trở thành người mẹ và giữ chặt lấy những nỗ lực huyễn tưởng thay đổi ý thức về giới từ nam chuyển sang nữ.

Để giải thích mong muốn thay đổi dương vật, Ovesey & Person (1973) nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác. Dương vật là bằng chứng hiển nhiên rằng cậu ta không thể hợp nhất với mẹ.  Cũng với lí do như vậy, cậu ta từ chối những hoạt động tình dục đồng giới bởi điều này có ý khẳng định rằng cậu ta là đàn ông. Do vậy các cậu bé này dường như chối bỏ những trải nghiệm tình dục và nhìn chung hiểu biết hạn hẹp về tình dục, kể cả thủ dâm. Nói tóm lại, động cơ an toàn đã chiếm ưu thế động cơ tình dục và đó cũng là kết quả của sự lo sợ bị mẹ bỏ rơi từ thời thơ ấu.

Điều kiện hoá sớm

Có thể nói lí thuyết về GID được chấp nhận nhiều nhất chính là điều kiện hoá sớm. Cha mẹ của những người mắc GID thường nói rằng họ luôn quan tâm và chú ý đến con cái khi chúng mặc quần áo khác giới. Điều này dường như đúng với các cậu bé, khi chúng được dạy cách trang điểm và một số hành vi phái nữ (Green, 1987). Những yếu tố tinh vi hơn có thể biểu hiện trong trò chơi. Những cô bé nghịch ngợm thường cũng có cha mẹ như vậy và cũng thường gắn kết, tôn sùng bố. Điều này cho phép nhận định rằng những hành vi như vậy đã được học từ cha mẹ và được thưởng khi thể hiện (Zucker và cs. 1994)

Kinh nghiệm điều kiện hoá cũng có thể giải thích tại sao rối loạn xác định giới ở trẻ nhiều hơn so với những người trưởng thành. Những trải nghiệm tuổi thơ được gia đình khuyến khích. Tuy nhiên khi trưởng thành lên, cá nhân chịu ảnh hưởng của nhiều người khác nhau: bạn bè cùng lứa, thầy cô giáo v.v… Và như vậy do những quá trình củng cố khác nhau, những hành vi của trẻ  có thể bị “phạt” nên dẫn đến những kết quả khác nhau.

Tuy nhiên cách tiếp cận này cũng khó giải thích đối với những trường hợp cá nhân có niềm tin sai lệch vững chắc về giới và sự kháng đối với bất kỳ một dạng trị liệu tâm lí nào.

Trị liệu rối loạn xác định giới

Trị liệu tâm lí

Hầu hết những người có GID đều kháng trị liệu tâm lí. Do vậy cũng chưa thấy có những thử nghiệm lâm sàng nhằm thay đổi xác định giới được công bố. Tuy nhiên cũng đã có những thông báo về một số trường hợp cho thấy có thể thay đổi được hành vi và thái độ song chủ thể phải thực sự có mong muốn, hoặc thậm chí ngay cả khi họ không tìm kiếm một sự giúp đỡ nào. Barlow cs. (1973) thông báo trường hợp can thiệp với một thanh niên 17 tuổi cũng đã từ chối tái cam kết phẫu thuật chuyển đổi giới. Can thiệp bao gồm hướng dẫn những hành vi, phong thái và kĩ năng xã hội của “đàn ông”. Can thiệp này đã có hiệu quả cuối đợt trị liệu, cá nhân đã cảm thấy những sự khác biệt giữa sự xác định giới về mặt sinh học với tâm lí. Trường hợp can thiệp thứ 2 là một cậu bé 5 tuổi, mặc đồ phụ nữ đã 2 năm trước khi bắt đầu trị liệu (Rekers & Lovaas, 1974). Các nhà trị liệu đã đề nghị cha mẹ cậu bé khởi đầu chương trình trị liệu hành vi. Trong chương trình này, họ phải cổ vũ những hành vi mang tính đàn ông, bao gồm cả những đồ chơi với trò chơi giống đực và vật nhau.

Họ cũng phải phê phán những hành vi nữ tính, ví dụ như chơi với búp bê. Chương trình đã đạt được kết quả trong việc thay đổi hành vi sau 2 năm. Điều này cho phép nhận định rằng sự phát triển những hành vi  liên quan đến GID có tính mềm dẻo nhất định.

Phẫu thuật

Nhiều người có GID đã đề nghị được phẫu thuật chuyển đổi giới. Đây là một loại phẫu thuật phức tạp và chia làm nhiều giai đoạn. Đối với nam chuyển sang giới nữ, trị liệu được khởi đầu ít nhất  là 1 năm trước khi phẫu thuật (xem hộp 10.2). Đầu tiên cá nhân bắt đầu dùng hormon nữ oestrogen. Hormon này sẽ dần làm thay đổi về cơ thể như vú to ra, da mềm đi. Có thể chuyển mỡ từ vai xuống hông để tạo dáng nữ.

Sau khi bắt đầu, hormon thường không được dùng đều đặn. Cùng lúc đó cá nhân đi chạy điện phân để làm thay đổi kiểu tóc đàn ông. Họ cũng bắt đầu tập nói giọng nữ. Ngay từ thời kỳ đầu một số người đ∙ đi phẫu thuật thẩm mỹ để làm thay đổi nét mặt cho giống với phụ nữ. Hầu hết những thay đổi này đều hồi phục. Phần lớn những thay đổi không dễ chịu đều quay trở lại ít nhất là sau một năm, khi mà cá nhân cần phải sống như một phụ nữ. Chỉ khi “giai đoạn thử” hoàn toàn thành công thì mới thực hiện phẫu thuật. Qui trình này bao gồm cắt bỏ dương vật và tạo âm hộ. Điều này có thể đảm bảo cho giao hợp bình thường.

Quá trình chuyển đổi từ nữ sang nam cũng tương tự như vậy. Liệu pháp hormon sẽ làm thay đổi hình dạng cơ thể, tái phân bố mỡ và làm trầm giọng nói. Tuy nhiên phẫu thuật sẽ khó khăn hơn và thường tí thành công. người ta có thể phẫu thuật tạo được dương vật song nhìn chung là nhỏ và không có khả năng cương cứng. Và như vậy không thể thực hiện được hành vi giao hợp nếu không có sự trợ giúp  của các phụ kiện nhân tạo. Phẫu thuật có thể bao gồm cắt cả 2 dạ con và tử cung.

Hậu quả tâm lí và xã hội của phẫu thuật nhìn chung là tốt. Theo số liệu của Viện Wessex về nghiên cứu và phát triển sức khoẻ (1998), 2 năm sau phẫu thuật giới tính, những người được phẫu thuật đã thăm gia đình và bạn bè thường xuyên hơn, hay ra ngoài ăn và có các hoạt động thể thao và tình dục nhiều hơn. Họ cũng có được những kết quả nhỏ nhoi trong công việc, uống rượu bia, đi nhà hát, xem phim. Y.L.S.Smith và cs. (2001) đã nghiên cứu theo dõi trong vòng 4 năm nhóm thanh thiếu niên, những người không phẫu thuật và những người phẫu thuật. Trong khoảng thời gian này, không ai trong số những người được phẫu thuật tỏ ra ân hận về lựa chọn của mình. Họ đều cho rằng họ cảm thấy tốt hơn  cả về mặt tâm lí và xã hội. Còn đối với những người không phẫu thuật, nhìn chung họ cảm thấy không tốt lắm mặc dù họ cũng có thể đạt được một sự tiến bộ nào đó trên các thang đo khác nhau như loạn cảm xúc giới tính, không hài lòng với cơ thể. Tuy nhiên những tiến bộ đạt được cũng rất khác nhau tuỳ theo mức độ can thiệp phẫu thuật. Những kết quả tích cực trong các nghiên cứu không kiểm soát đạt được chủ yếu ở các khía cạnh như kiểu dáng thẩm mĩ, chức năng tình dục, tự đánh giá, biểu tượng về cơ thể, cuộc sống gia đình, các mối quan hệ xã hội, tình trạng và sự thoả mãn tâm lí.   Chỉ có một số rất ít có những tai biến sau phẫu thuật bao gồm phải thường xuyên tái nhập viện và tự sát. Cũng có những vấn đề mới nảy sinh về việc tái cam kết phẫu thuật. Một số cá nhân có thể yêu cầu phẫu thuật không đau, các điều kiện liên quan đến công việc, gia đình, vợ chồng, con cái và bạn bè một khi giới tính của họ thay đổi.

Tiếp cận phẫu thuật chuyển đổi giới ở nước Anh là khá hạn chế. Trước đây do các nguồn phục vụ chăm sóc sức khoẻ chưa tương thích nên dạng phẫu thuật này không được ưu tiên và rất nhiều người có GID rất khó tìm được nơi để phẫu thuật. Nếu không được thì có thể đặt vấn đề với Cơ quan Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ Quốc gia. Nhiều người đã lựa chọn dịch vụ phẫu thuật tư của các chuyên gia trong những công ty tư nhân, ví dụ như TRANSFORM. Tại đây cá nhân được đánh giá mức độ phù hợp giới, được tiến hành liệu pháp hormon trong 1 năm để chờ đợi phẫu thuật và cố gắng sống như một người giới khác, sau đó là phẫu thuật và các hỗ trợ sau phẫu thuật.

Simon là một người đàn ông 30 tuổi đã bắt đầu qui trình này. Anh ta đã được thăm khám và đánh giá là ca có thể thực hiện được. Simon đã bắt đầu trị liệu hormon. Vào thời gian phỏng vấn anh ta đã mô tả điều gì dẫn đến quyết định phẫu thuật chuyển đổi giới và những khó chịu mà anh ta gặp phải:

Tôi rất bực. Tôi biết mình có một cơ thể không phù hợp và không ai có thể thuyết phục được rằng tôi đã sai. Đã từ lâu lắm rồi, kể từ khi tôi nhớ được, tôi đã cảm thấy như thế. Tôi muốn có vú, muốn trở thành con gái, có kinh nguyệt, muốn giải thoát dương vật. Tôi rất khó chịu khi cứ buộc phải chịu đựng những cái mà tôi cho rằng  không phải là mình. Thực ra thì cũng tương đối ngại phải chấp nhận điều này và phải đi đến cùng. Tuy nhiên đó cũng là điều tôi muốn…

Tôi cưới vợ và cũng cố để thích nghi. Tôi cũng rất yêu cô ấy. Tuy nhiên là không phải theo kiểu thể xác. Chúng tôi không quan hệ tình dục…cô ấy cũng không phải là người của tình dục. Chính vì vậy mà tôi chăm sóc cô ấy. Cô ta không hấp dẫn nhưng là một người tốt, do vậy đối với tôi điều đó thật dễ chịu, khi mà tình dục không phải là một vấn đề lớn. Điều này có lẽ thật không phải, song chúng tôi là những người bạn tốt của nhau, sống hoà thuận với nhau. Tôi cũng đã cố gắng giữ  bí mật. Tôi có một góc nhỏ trong tủ quần áo cất giấu đồ phụ nữ. Tôi mặc nó khi vợ đã đi làm. Khi đó cảm thấy rất tự nhiên và thật là tuyệt vời. Chỉ khi đó tôi mới cảm thấy được mình là mình, là người mình muốn. Tôi còn có bộ tóc giả, mĩ phẩm và đồ nữ trang nên tôi cảm thấy tôi như là phụ nữ. Điều bí mật đã bị lộ khi có lần vợ tôi trở về nhà khi tôi đang mặc đồ phụ nữ và tôi đã phải cố gắng lắm để giải thích cho cô ta hiểu rằng tôi cảm thấy như thế nào và muốn gì. Cô ta nhận ra rằng tôi muốn thay đổi giới tính. Chúng tôi sẽ sống với nhau cho đến khi cơ thể tôi thay đổi do dùng hormon. Nhưng rồi cô ta vẫn muốn sống với tôi mặc cho điều đó diễn ra. Tôi cũng không hiểu cái gì sẽ xảy ra. Vậy là…tôi mặc đồ phụ nữ và đội tóc giả cả ngày. Cô ta biết vậy nhưng vẫn chấp nhận… tôi không phải là “kẻ chuyển đổi” (chuyển đổi giới tính), tôi muốn hơn thế - chỉ mặc đồ phụ nữ đối với tôi là chưa đủ. Họ (những người chuyển đổi) là những người đàn ông thích thể hiện   là phụ nữ. Còn tôi luôn luôn muốn là người phụ nữ thực sự. Tuy nhiên sự việc lại dần đi theo hướng tồi tệ hơn. Tôi đã đến chỗ phỏng vấn của Bệnh viện Charing Cross và họ đã chấp nhận tôi vào chương trình của họ. Tuy nhiên y tế địa phương lại không quan tâm đến chuyện này mặc dù tôi đã có thư từ bác sĩ riêng và bác sĩ tâm thần rằng tôi cần phải làm. Do vậy tôi buộc phải đến Transform. Họ gửi tôi tới nhà tâm lí để đánh giá sau đó chấp nhận tôi vào chương trình. Thật là tuyệt với song tôi lại không có tiền nên không thể làm theo con đường thẳng. Tôi rất buồn, buồn ghê gớm. Tôi thật sự cần thay đổi nhưng chẳng ai giúp đỡ tôi cả. Đã có lúc tôi thực sự nghĩ đến tự sát…Tôi nghĩ như vậy là chẳng thay đổi được gì…và tôi cũng không nói gì với vợ và tôi lại càng buồn…

Tôi phải dùng thuốc chống trầm cảm cho đến bây giờ…Tôi nghĩ rằng thuốc đã giúp tôi được ít nhiều… tôi cũng chưa biết làm cách nào  để có tiền cho phẫu thuật… tôi có thể bán nhà song như thế thì không phải với vợ tôi, vậy là tôi tạm bằng lòng với  việc dùng hormon và tìm cách thay đổi, nhưng tôi cũng chưa biết làm cách nào…

Nhiều người buộc phải từ bỏ môi trường cũ mặc dù họ cảm thấy tự tin hơn trong vai trò giới mới. Họ cũng có thể gặp nhiều khó khăn trong việc thích ứng xã hội và được người khác chấp nhận.

Trị liệu hormon không chỉ làm thay đổi cơ thể mà nó còn kéo theo những biến đổi về tâm lí nhận thức. Van Goozen và cs. (1995) đã thông báo về ảnh hưởng của trị liệu hormon giới tính ảnh hưởng đến các quá trình nhận thức và hành vi. Trong số những phụ nữ chuyển đổi sang nam giới bằng androgens thấy có hiện tượng tăng tính xâm kích, tăng kích thích tình dục và năng lựcđịnh hướng không gian, giảm điểm số trên thang đo mức độ lưu loát ngôn ngữ. Đối với nhóm người chuyển đổi từ nam sang nữ , các tác giả thấy những hiện tượng ngược lại: ít cáu giận, giảm hung tính, giảm kích thích tình dục và giảm khả năng định hướng không gian. Trong khi đó mức độ lưu loát ngôn ngữ lại tăng. Những người đàn ông chuyển đổi sang phụ nữ đang dùng oestrogen cũng cho thấy điểm số trong các bài tập liên tưởng đôi cũng tăng đáng kể so với nhóm không dùng oestrogen (Miles và cs. 1998).

Bài viết cùng chuyên mục

Mô hình gia đình các rối loạn sức khoẻ tâm thần

Dựa trên lí thuyết hệ thống mà người ta đã xây dựng những mô hình gia đình về rối loạn sức khỏe tâm thần và cách trị liệu của các rối loạn đó. Lí thuyết này xem gia đình hoặc những nhóm xã hội khác như là một hệ thống những cá nhân có  liên quan với nhau.

Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.

Trị liệu lo âu

Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.

Giải thích về trị liệu sinh học hành vi dị thường

Những giải thích và trị liệu sinh học các rối loạn tâm thần dựa trên cơ sở rằng hành vi và cảm xúc được điều hành bởi các hệ thống của não. Những hệ thống này cho phép chúng ta tiếp nhận thông tin, tích hợp thông tin với trí nhớ và các yếu tố nổi bật khá.

Trị liệu trầm cảm

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó.

Trị liệu tâm thần phân liệt

Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.

Những quan điểm hiện đại về tính dị thường

Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Những vấn đề chẩn đoán hành vi dị thường

Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.

Các lựa chọn của mô hình y khoa hành vi dị thường

Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường

Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường

Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.

Nguyên nhân những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Có rất nhiều tài liệu khác nhau tập trung vào những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm thần. Những yếu tố này không tác động một cách riêng rẽ mà có sự kết hợp với nhau tạo thành nguy cơ xuất hiện các rối loạn tâm thần ở cá nhân.

Những yếu tố trong phạm vi trị liệu hành vi bất thường

Việc tự bạch diễn ra khi nhà trị liệu kể cho thân chủ những câu chuyện tương ứng với tình huống của thân chủ, như những trải nghiệm tương tự, ý nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cá nhân.

Nguyên nhân của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là trung tâm của cuộc tranh luận khoa học về bản chất và vai trò của dinh dưỡng trong sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần. Có lẽ chiếm ưu thế là mô hình nguyên nhân của tâm thần phân liệt khi cho rằng nó có căn nguyên sinh học.

Bản chất của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là một trong những chẩn đoán tâm thần gây nhiều tranh cãi nhất. Trải qua các thời kỳ, người ta vẫn còn tranh luận rằng  liệu có thật sự tồn tại một trạng thái tâm thần phân liệt, nó là do di truyền hay do môi trường.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt của DSM

Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.

Tiến trình trị liệu hành vi bất thường

Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển phong phú và đa dạng của những phương pháp khác nhau, phỏng vấn lâm sàng vẫn là công cụ chính để tìm hiểu vấn đề của thân chủ. Shea (1998) đưa ra 6 mục tiêu của sự đánh giá ban đầu.

Điều trị tâm thần phân liệt

Hầu hết những người được chẩn đoán tâm thần phân liệt đều đã được dùng một loại thuốc nào đó mặc dù liều lượng có thể được giảm hoặc thậm chí được uống trong thời kì ổn định.

Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường

Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.

Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường

DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức hành vi dị thường

Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.

Bản chất và nguyên nhân trầm cảm

Hệ thống phân loại bệnh DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa một giai đoạn trầm cảm chủ yếu khi có sự xuất hiện của ít nhất 5 trong số các triệu chứng, trong tối thiểu 2 tuần.

Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường

Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hành vi dị thường

Người bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorder) trải qua cả trầm cảm và những giai đoạn hưng cảm. Theo DSM-IV-TR, cơn hưng cảm bao gồm ít nhất ba trong số các triệu chứng.

Nguyên nhân và trị liệu hành vi tự sát

Tự sát không phải là một rối loạn cảm xúc. Nó không chỉ liên quan duy nhất đến trầm cảm. Song, đây là một vấn đề nghiêm trọng và liên quan rõ rệt đến trầm cảm hơn bất cứ rối loạn sức khỏe tâm thần nào được nhắc đến trong phần này.

Rối loạn stress sau sang chấn

Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.

Rối loạn xác định phân ly

Một đặc tính của những cá nhân được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn xác định phân li (DID - dissociative identity disorder) là rằng họ cư xử như họ có hai hay nhiều hơn những bản thể hoặc nhân cách khác biệt.

Bằng chứng và phục hồi trí nhớ

Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.

Co thắt âm đạo hành vi bất thường

Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi tình dục là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận sinh dục.

Rối loạn chức năng tình dục

Chưa có nhiều những đánh giá về can thiệp nhận thức trong trị liệu rối loạn cương cứng, mặc dù Goldman và Carroll cũng đã thông báo kết quả của một số xemina.

Loạn dục cải trang hành vi dị thường

Lặp đi lặp lại những tưởng tượng kích thích hoặc đòi hỏi tình dục với cường độ mạnh hoặc các hành vi như mặc quần áo của người khác giới trong khoảng thời gian ít nhất là trên 6 tháng.

Loạn dục đa dạng hành vi bất thường

Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).

Loạn dục với trẻ em

Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.

Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường

Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).

Rối loạn nhân cách ranh giới hành vi dị thường

DSM-IV-TR định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới gồm các mối quan hệ liên cá nhân, hình ảnh bản thân, tình cảm không ổn định và có xung động rõ rệt. Nó khởi phát từ đầu thời thơ ấu và bao gồm 5 trong số những triệu chứng.

Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường

Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.

Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường

Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.

Khó học với hành vi dị thường

Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.

Tự kỷ với hành vi dị thường

Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.

Rối loạn tăng động giảm chú ý

Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.

Xơ vữa rải rác tâm lý dị thường

Tiến trình MS rất khác nhau ở các cá nhân. ít có trường hợp khởi phát trước 15 tuổi; 20% số trường hợp bị MS có dạng khởi đầu giống như một bệnh trong đó các triệu chứng hầu như không tiến triển sau khi xuất hiện.

Chấn thương sọ não tâm lý dị thường

Chấn thương sọ não kín xuất hiện khi đầu bị va chạm mạnh nhưng không có tổn thương hộp sọ hoặc vết thương não đặc biệt. Dạng chấn thương như vậy thường gây ra sự chấn động toàn bộ não trong hộp sọ và tổn thương lan toả.

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường

Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998).

Rối loạn thần kinh tâm lý dị thường

Trong chấn thương sọ não, các quá trình nhận thức cũng có thể bị tổn thiệt đáng kể, tuy nhiên sau đó nó có thể được hồi phục một phần

Đánh bạc bệnh lí tâm lý dị thường

Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy.

Sử dụng heroin tâm lý dị thường

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.

Lạm dụng rượu tâm lý dị thường

Rượu là một chất gây nghiện hợp pháp. Uống đến mức độ vừa phải, một vài loại rượu như rượu vang đỏ, có thể có lợi cho sức khỏe. Nhưng việc sử dụng rượu quá mức lại là có hại.