Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần

2013-08-11 05:35 PM

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tăng cường sức khoẻ

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực. Quan điểm này bao gồm:

Có một cách tiếp cận đúng đắn về sức khoẻ.

Tôn trọng những nền văn hoá và tín ngưỡng khác nhau.

Tăng cường sức khoẻ tích cực cũng như phòng ngừa bệnh tật.

Làm việc ở mức độ hệ thống chứ không chỉ cá nhân.

Sử dụng những phương pháp tham gia.

Bỏ qua khía cạnh chuyên môn của từ ngữ, điều này có nghĩa rằng tăng cường sức khoẻ không chỉ tiến hành với các cá nhân mà cần phải tiến hành ở mức độ xã hội để khuyến khích sự cải thiện về mặt sức khoẻ. Làm việc với cộng đồng để đáp ứng được những nhu cầu sức khoẻ cụ thể và cố gắng để cải thiện sức khoẻ cũng như chất lượng sống, chứ không chỉ để phòng bệnh. Những chương trình tăng cường sức khoẻ có thể được thực hiện ở mức độ luật pháp, với cộng đồng, với các nhóm và các cá nhân bên trong cộng đồng. Nó có thể được điều hành bởi nhiều người, trong đó một số những người chuyên làm việc trong lĩnh vực tăng cường sức khoẻ còn nhiều người khác thì không. Một số ví dụ về phạm vi hoạt động của tăng cường sức khoẻ nhằm hạn chế tối đa những vấn đề do nghiện rượu được nêu ra.

Mối liên hệ giữa sức khỏe tâm thần kém và sự không công bằng kinh tế- xã  hội đã khiến một số nhà bình luận cho rằng chiến lược can thiệp có sức thuyết phục  nhất là các chiến lược can thiệp nhằm làm giảm sự không đồng đều về sức khoẻ phải được thực hiên trên cả 3 bình diện: xã hội, kinh tế và chính trị. Từ góc độ kinh tế, những chiến lược nên bao gồm các biện pháp để giảm việc thất nghiệp đến mức thấp nhất có thể. Mô hình kinh tế của người Thuỵ điển đã được chứng minh là có hiệu quả bao gồm: việc duy trì mức độ cao người có việc làm, trao đổi chỗ làm, đào tạo chất lượng cao những kĩ năng mà thị trường lao động, khuyến khích các nhà sử dụng lao động tuyển dụng người và biện pháp cuối cùng là quyền được lao động công cộng tạm thời. Davey Smith và cs. (1999) đã chỉ ra một loạt các biện pháp  kinh tế khác nhau. Họ cho rằng quy định mức thu nhập cơ bản ‘đủ khả năng chi trả là một cách để chấm dứt nghèo đói. Thêm vào đó, họ đề nghị rằng phải tăng tất cả các các loại trợ cấp đối với các gia đình có con nhỏ đang phải nhận hỗ trợ thu nhập để tránh việc thế hệ con cái họ gặp phải bất lợi ngay từ lúc mới sinh ra. Họ cũng lưu ý rằng một phần tư trẻ em được sinh ra từ những bà mẹ dưới 25 tuổi và rằng chính phủ cần bảo đảm cho những người dưới độ tuổi đó nhận được trợ cấp tương đương với những người lớn tuổi hơn. Việc này đúng là ngoài khả năng hiện tại để đánh giá điểm mạnh và yếu của các hệ thống kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, những điều này lại rất có ý nghĩa đối với sức khỏe tâm thần và vì vậy cần có một hành lang pháp lí cho những người tham gia vào lĩnh vực tăng cường sức khoẻ và sức khoẻ công cộng.

Can thiệp trị liệu

Hầu hết những can thiệp cải thiện sức khoẻ chỉ sử dụng những cách tiếp cận hạn hẹp hơn là những tiếp cận cơ bản. Can thiệp chủ yếu vẫn là trị liệu, mặc dù được tiến hành bên ngoài những khoa ngoại trú truyền thống hoặc trong nhóm dân cư mới. Sự phát triển mang tính đổi mới là làm việc với những người có nguy cơ gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần, phát hiện sớm và trị liệu những vấn đề như vậy, tham vấn dự phòng và dịch vụ trị liệu trong cộng đồng, tại các phòng khám đa khoa hoặc môi trường làm việc. Những can thiệp khác nhằm ngăn ngừa sự tái phát ở những người đã được xác định là có vấn đề về sức khỏe tâm thần và những người đó được trị liệu ở các dịch vụ chăm sóc y tế (Secker, 1998). Nói một cách khác, việc phòng ngừa cố gắng để tập trung vào những dịch vụ sức khoẻ xã hội, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, hướng đến cá nhân và chấm dứt chuỗi can thiệp.

Sử dụng các phương tiện truyền thông

Một ngoại lệ quan trọng đối với tiếp cận lấy cá nhân làm tiêu điểm là những chương trình trên các phương tiện truyền thông được sử dụng để giáo dục và tác động đến những người có hoặc dễ tổn thương với những vấn đề sức khỏe tâm thần. Cứ bốn người thì một người phải trải qua những vấn đề về sức khỏe tâm thần trong cuộc đời họ, trong số đó có rất ít người được sự trợ giúp chuyên môn (Jerkins và cs. 1998). Hệ thống truyền thông đa dạng có thể cung cấp phương tiện để tiếp cận những cá nhân như thế. Barker và cs. (1993) đã đưa ra một ví dụ điển hình cho cách tiếp cận này. Họ ghi lại kết quả tác động của một seri gồm 7 chương trình 10 phút về những chủ đề sức khỏe tâm thần khác nhau. Một cuộc trưng cầu ý kiến khán giả cho thấy việc xem seri đó đem lại những thay đổi về mặt thái độ chứ chưa phải là về hành vi: có thể như dự đoán, đó là do sự ngắn gọn của mỗi chủ đề. Bennett và cs. (1991) đã khẳng định được hiệu quả của một seri truyền hình lớn hơn “Hướng dẫn sử dụng rượu có lợi”, nhằm vào việc uống rượu. Chương trình được thiết kế để thu hút những người uống rượu trẻ tuổi. Những nhân vật trong giới truyền thông cũng như những chuyên gia đã phân tích cho người xem về ý nghĩa của uống rượu hợp lí và cung cấp những mô hình uống rượu hợp lí. Ví dụ như Rowan Atkinson đã cung cấp những bảng nhắc nhở rất hài hước về giới hạn của uống rượu hợp lí trong mỗi tuần. Một trong những người trình bày thậm chí đã giảm lượng tiêu thụ của mình sau khoá học. Những điều tra trước và sau khoá học cho thấy hiểu biết chung của toàn dân về uống rượu hợp lí. Điều này đã kéo theo một sự biến chuyển nhẹ về thái độ của những người từ uống rượu nhiều sang uống ít hơn.

Giáo dục công cộng

Một cách tiếp cận tăng cường sức khoẻ khác là cung cấp một hình thức can thiệp tâm lí tương đối đơn giản, mở rộng với tất cả mọi người: thường là dưới dạng những lớp học quản trị stress. Brown và cs. (2000) đã đánh giá một chương trình như vậy. Họ mở một đợt tám hội thảo miễn phí kéo dài một hoặc nửa ngày về quản trị stress trong một trung tâm giải trí, theo cuộc vận động quảng cáo như là một phần của chương trình “Birmingham khoẻ 2000”. Những lớp như vậy dạy những người tham gia các kĩ năng thư giãn và một số kĩ năng khác để làm chủ stress. Các nhóm so sánh của họ bao gồm những người tham gia một chương trình cả ngày tập trung vào việc ăn uống khoa học, nhận biết về rượu và những bài tập thể chất và một nhóm người đang trong danh sách đợi tham dự những chương trình hội thảo tương lai. Chương trình mang tính phổ thông và hấp dẫn cả những người đã từng gặp chuyên gia sức khoẻ, thường là bác sĩ đa khoa của họ, về những vấn đề liên quan đến stress và những người chưa bao giờ gặp chuyên gia. Sự can thiệp cũng được chứng minh là thành công. So sánh mức độ khởi đầu, những người tham gia vào hội thảo cả ngày có đã giảm được stress và lo âu rõ rệt nhiều hơn so với nhóm chứng sau ba tháng tham gia hội thảo. Một kết quả ấn tượng, can thiệp tương đối gọn nhẹ và nhiều người có thể tham gia.

Tổ chức lao động cũng có thể đưa ra một hệ thống giúp con người học được các kĩ năng quản trị stress. Một cuộc điều tra (Fielding và Piserchia, 1989) cho thấy rằng khoảng một phần tư các công ti lớn ở Mỹ tổ chức các lớp học như vậy đã được chứng minh là có hiệu quả, mặc dù Oldenburg và Harris (1996) lưu ý rằng chúng chỉ thu hút khoảng từ 10% đến 40% lực lượng lao động và rất nhiều người chỉ đến tham dự vài buổi để đạt được một mục đích nào đó. Ngoài ra rất nhiều người có chứng lo âu đã không tham dự.

Xây dựng và tiến hành những loại hội thảo này, mặc dù có lợi cho người tham dự, song tương đối tốn kém và mất thời gian, nên một số nhóm đã bắt đầu khai thác những cách tiếp cận khác, hiệu quả hơn về mặt chi phí. Một cách tiếp cận thú vị là cung cấp những khoá đào tạo quản trị stress và các trị liệu tâm lí qua mạng. Chỉ bằng việc tìm kiếm nhanh trên internet, ta có thể thấy hàng ngàn nhà trị liệu độc lập có dịch vụ này. Những dịch vụ đó nhằm mục đích trị liệu hơn là phòng ngừa. Tuy nhiên một dự án dự phòng có phạm vi lớn hơn cũng đang được xây dựng. Khi quyển sách này đang được viết thì một chương trình quản trị stress tương tác qua mạng đang được Unilever xây dựng. Người muốn có thể tham dự chương trình qua những văn phòng tư vấn sức khoẻ hoặc qua mạng toàn Châu Âu. Chương trình bao gồm tập luyện và các lời khuyên về ăn kiêng nhằm giảm stress, hạn chế những hành vi làm tăng nguy cơ bệnh tim. Matano và cs. (2000) đã báo cáo về một cách tiếp cận có mục đích rõ ràng hơn. Họ đã lập ra một trang web hướng dẫn cách giảm mức uống rượu cho một mạng làm việc lớn. Cũng như với dự án của Unilever, mức độ hữu dụng và hiệu quả vẫn chưa được đánh giá song những tiềm năng của cách can thiệp này là rất ấn tượng.

Can thiệp tổ chức

Cho đến nay,các tiếp cận dự phòng ngừa vẫn đang tập trung vào giúp con người giải quyết một cách hiệu quả hơn stress trong cuộc sống của họ. ở cấp độ can thiệp cao hơn có thể làm giảm những nguyên nhân gây stress. Trong khi còn đang khó thực hiện những thay đổi xã hội với diện rộng để cải thiện sức khoẻ tâm thì vì bị bó buộc bởi các yếu tố kinh tế và chính trị, một nơi có thể thực hiện tốt hơn, đó là nơi làm việc.

Công trình của Maes và cs. (1998) được xem một trong số ít những dự án quản trị stress mạng lưới tại nơi làm việc đã sử dụng tiếp cận hệ thống để làm giảm stress. Những can thiệp này tập trung vào thay đổi/ sửa chữa những khía cạnh quan trọng/ then chốt của môi trường làm việc nhằm tăng cường sức khoẻ tinh thần qua lực lượng lao động của một nhà sản xuất công nghiệp lớn. Can thiệp của họ đã kéo theo những nghiên cứu nhằm xác định điều kiện lao động mà có thể củng cố cả tình trạng sức khoẻ của công nhân và nâng cao hiêu quả sản xuất. Các cá nhân làm việc trong khả năng của họ, tránh việc hay thay đổi công việc trong khoảng thời gian ngắn, có sự kiểm tra tổ chức lao động và có sự giao tiếp xã hội phù hợp trong hoàn cảnh lao động. Với những ý tưởng đó, trong khuôn khổ của sản xuất, họ cố gắng thay đổi bản chất công việc của từng công nhân nhằm đem lại nó lại gần ý tưởng. Thêm vào đó, họ đào tạo cho những người quản lí các kĩ năng giao tiếp và lãnh đạo, các phương pháp nhận biết, phòng ngừa và giảm stress cá nhân trong công việc. Mặc dù trong chương trình nghiên cứu không có phần đo lường stress song những những thay đổi có được đã làm tăng chất lượng công việc, giảm tỉ lệ nghỉ việc. Cả hai điều này đều là những chỉ báo rằng sức khoẻ công nhân vẫn tốt trong lao động.

Bài viết cùng chuyên mục

Mô hình gia đình các rối loạn sức khoẻ tâm thần

Dựa trên lí thuyết hệ thống mà người ta đã xây dựng những mô hình gia đình về rối loạn sức khỏe tâm thần và cách trị liệu của các rối loạn đó. Lí thuyết này xem gia đình hoặc những nhóm xã hội khác như là một hệ thống những cá nhân có  liên quan với nhau.

Trị liệu lo âu

Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.

Giải thích về trị liệu sinh học hành vi dị thường

Những giải thích và trị liệu sinh học các rối loạn tâm thần dựa trên cơ sở rằng hành vi và cảm xúc được điều hành bởi các hệ thống của não. Những hệ thống này cho phép chúng ta tiếp nhận thông tin, tích hợp thông tin với trí nhớ và các yếu tố nổi bật khá.

Trị liệu trầm cảm

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó.

Trị liệu tâm thần phân liệt

Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.

Những quan điểm hiện đại về tính dị thường

Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Những vấn đề chẩn đoán hành vi dị thường

Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.

Các lựa chọn của mô hình y khoa hành vi dị thường

Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường

Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường

Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.

Nguyên nhân những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Có rất nhiều tài liệu khác nhau tập trung vào những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm thần. Những yếu tố này không tác động một cách riêng rẽ mà có sự kết hợp với nhau tạo thành nguy cơ xuất hiện các rối loạn tâm thần ở cá nhân.

Những yếu tố trong phạm vi trị liệu hành vi bất thường

Việc tự bạch diễn ra khi nhà trị liệu kể cho thân chủ những câu chuyện tương ứng với tình huống của thân chủ, như những trải nghiệm tương tự, ý nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cá nhân.

Nguyên nhân của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là trung tâm của cuộc tranh luận khoa học về bản chất và vai trò của dinh dưỡng trong sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần. Có lẽ chiếm ưu thế là mô hình nguyên nhân của tâm thần phân liệt khi cho rằng nó có căn nguyên sinh học.

Bản chất của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là một trong những chẩn đoán tâm thần gây nhiều tranh cãi nhất. Trải qua các thời kỳ, người ta vẫn còn tranh luận rằng  liệu có thật sự tồn tại một trạng thái tâm thần phân liệt, nó là do di truyền hay do môi trường.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt của DSM

Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.

Tiến trình trị liệu hành vi bất thường

Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển phong phú và đa dạng của những phương pháp khác nhau, phỏng vấn lâm sàng vẫn là công cụ chính để tìm hiểu vấn đề của thân chủ. Shea (1998) đưa ra 6 mục tiêu của sự đánh giá ban đầu.

Điều trị tâm thần phân liệt

Hầu hết những người được chẩn đoán tâm thần phân liệt đều đã được dùng một loại thuốc nào đó mặc dù liều lượng có thể được giảm hoặc thậm chí được uống trong thời kì ổn định.

Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường

Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.

Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường

DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức hành vi dị thường

Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.

Bản chất và nguyên nhân trầm cảm

Hệ thống phân loại bệnh DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa một giai đoạn trầm cảm chủ yếu khi có sự xuất hiện của ít nhất 5 trong số các triệu chứng, trong tối thiểu 2 tuần.

Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường

Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hành vi dị thường

Người bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorder) trải qua cả trầm cảm và những giai đoạn hưng cảm. Theo DSM-IV-TR, cơn hưng cảm bao gồm ít nhất ba trong số các triệu chứng.

Nguyên nhân và trị liệu hành vi tự sát

Tự sát không phải là một rối loạn cảm xúc. Nó không chỉ liên quan duy nhất đến trầm cảm. Song, đây là một vấn đề nghiêm trọng và liên quan rõ rệt đến trầm cảm hơn bất cứ rối loạn sức khỏe tâm thần nào được nhắc đến trong phần này.

Rối loạn stress sau sang chấn

Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.

Rối loạn xác định phân ly

Một đặc tính của những cá nhân được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn xác định phân li (DID - dissociative identity disorder) là rằng họ cư xử như họ có hai hay nhiều hơn những bản thể hoặc nhân cách khác biệt.

Bằng chứng và phục hồi trí nhớ

Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.

Co thắt âm đạo hành vi bất thường

Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi tình dục là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận sinh dục.

Rối loạn xác định giới hành vi dị thường

Để giải thích mong muốn thay đổi dương vật, Ovesey & Person nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác.

Rối loạn chức năng tình dục

Chưa có nhiều những đánh giá về can thiệp nhận thức trong trị liệu rối loạn cương cứng, mặc dù Goldman và Carroll cũng đã thông báo kết quả của một số xemina.

Loạn dục cải trang hành vi dị thường

Lặp đi lặp lại những tưởng tượng kích thích hoặc đòi hỏi tình dục với cường độ mạnh hoặc các hành vi như mặc quần áo của người khác giới trong khoảng thời gian ít nhất là trên 6 tháng.

Loạn dục đa dạng hành vi bất thường

Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).

Loạn dục với trẻ em

Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.

Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường

Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).

Rối loạn nhân cách ranh giới hành vi dị thường

DSM-IV-TR định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới gồm các mối quan hệ liên cá nhân, hình ảnh bản thân, tình cảm không ổn định và có xung động rõ rệt. Nó khởi phát từ đầu thời thơ ấu và bao gồm 5 trong số những triệu chứng.

Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường

Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.

Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường

Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.

Khó học với hành vi dị thường

Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.

Tự kỷ với hành vi dị thường

Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.

Rối loạn tăng động giảm chú ý

Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.

Xơ vữa rải rác tâm lý dị thường

Tiến trình MS rất khác nhau ở các cá nhân. ít có trường hợp khởi phát trước 15 tuổi; 20% số trường hợp bị MS có dạng khởi đầu giống như một bệnh trong đó các triệu chứng hầu như không tiến triển sau khi xuất hiện.

Chấn thương sọ não tâm lý dị thường

Chấn thương sọ não kín xuất hiện khi đầu bị va chạm mạnh nhưng không có tổn thương hộp sọ hoặc vết thương não đặc biệt. Dạng chấn thương như vậy thường gây ra sự chấn động toàn bộ não trong hộp sọ và tổn thương lan toả.

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường

Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998).

Rối loạn thần kinh tâm lý dị thường

Trong chấn thương sọ não, các quá trình nhận thức cũng có thể bị tổn thiệt đáng kể, tuy nhiên sau đó nó có thể được hồi phục một phần

Đánh bạc bệnh lí tâm lý dị thường

Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy.

Sử dụng heroin tâm lý dị thường

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.

Lạm dụng rượu tâm lý dị thường

Rượu là một chất gây nghiện hợp pháp. Uống đến mức độ vừa phải, một vài loại rượu như rượu vang đỏ, có thể có lợi cho sức khỏe. Nhưng việc sử dụng rượu quá mức lại là có hại.