Bản chất của tâm thần phân liệt

2013-08-09 04:07 PM

Tâm thần phân liệt là một trong những chẩn đoán tâm thần gây nhiều tranh cãi nhất. Trải qua các thời kỳ, người ta vẫn còn tranh luận rằng  liệu có thật sự tồn tại một trạng thái tâm thần phân liệt, nó là do di truyền hay do môi trường.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tâm thần phân liệt là một trong những chẩn đoán tâm thần gây nhiều tranh cãi nhất. Trải qua các thời kỳ, người ta vẫn còn tranh luận rằng  liệu có thật sự tồn tại một trạng thái tâm thần phân liệt, nó là do di truyền hay do môi trường và liệu có nhất thiết phải điều trị bằng thuốc, bằng sốc điện hay cần nhiều đến trị liệu tâm lí-xã hội. Bài này sẽ đề cập đến từng vấn đề đó. Cuối bài bạn sẽ nắm được:

Bản chất của tâm thần phân liệt.

Cách hiểu về “triệu chứng” của tâm thần phân liệt.

Vai trò, nguyên nhân có thể có của các yếu tố di truyền, gia đình và tâm lí - xã hội.

Mô hình nơ ron và dẫn truền thần kinh của rối loạn.

Mô hình tâm lí trải nghiệm của những người được chẩn đoán tâm thần phân liệt.

Các cách tiếp cận trị liệu tâm thần phân liệt khác nhau và hiệu quả của chúng.

Cái mà bây giờ vẫn gọi là tâm thần phân liệt đã được Kraepelin mô tả lần đầu vào năm 1883 bằng thuật ngữ dementia praecox. Thuật ngữ này dùng để chỉ một bệnh nhân cách tan rã tiến triển, không hồi phục được chức năng của giai đoạn trước khi bị bệnh. Vài năm sau đó, Bleuler (1908) xác định có 4 triệu chứng cơ bản mà ông cho rằng đó là 4 nhóm tâm thần phân liệt: tính hai chiều trái ngược, rối loạn liên tưởng, rối loạn cảm xúc và huyễn tưởng phi thực tế. Trong tiền sử, nhiều người trong số họ đã từng bị một tổn thưởng thần kinh nào đó, bao gồm cả viêm não ngủ lịm (Boyle 1990).

Cho đến nay người ta vẫn tiếp tục tranh luận về bản chất của tâm thần phân liệt. Tuy nhiên hầu hết đều nhất trí rằng nó bao gồm những rối loạn liên quan đến tư duy và tri giác. Rối loạn quá trình tư duy thường được xem như là một triệu chứng thường gặp nhất ở tâm thần phân liệt. Câu chuyện thiếu sự kết nối, đang từ chủ đề này nhảy sang chủ đề khác và đang từ ý nghĩ này chuyển sang ý nghĩ khác, hoàn toàn không liên quan. Người mắc chứng tâm thần phân liệt có thể có hiện tượng tạo từ mới hoặc liên tưởng hổ lốn các từ. Họ có thể có cảm giác rằng ai đó đang áp đặt ý nghĩ cho họ làm mất định hướng trong đối thoại hoặc trong suy nghĩ, thậm chí nói không trọn vẹn câu. Những hiện tượng như vậy bao gồm hoang tưởng chi phối (cả 2 loại: có khả năng chi phối người khác và bị người khác chi phối), hoang tưởng tự cao (tin rằng mình rất giàu, nổi tiếng, tài giỏi) và hoang tưởng liên hệ (tin rằng mọi hành vi của người khác đều có liên quan trực tiếp đến mình: sự động chạm, cái liếc nhìn, tiếng cười đều hướng trực tiếp đến họ). Người bị tâm thần phân liệt cũng có thể có ảo giác, chủ yếu là ảo thanh. Nội dung của ảo giác cũng rất khác nhau, từ ôn hoà cho đến quấy rầy, hành hạ…Cảm xúc của những người này cũng tường được mô tả là cùn mòn. Thường họ ít có những đáp ứng cảm xúc mặc dù họ có thể có những trạng thái hung hăng hoặc trầm cảm và thường là do những ý nghĩ bên trong hoặc do ảo giác.

Trải nghiệm của những người bị tâm thần phân liệt cũng rất khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp của một trải nghiệm nào đó vào cuộc sống của họ. Nhiều người có hoang tưởng kéo dài nhưng không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của họ; đối với những người khác, trải nghiệm có thể có nhiều vấn đề. Xin dẫn ra 2 ví dụ của Michael và David. Michael là một người đàn ông trung niên được chẩn đoán tâm thần phân liệt cách đây vài năm. Anh có một cuộc sống bình thường trong một căn hộ nhỏ ở Cardiff. Một trong những hoang tưởng của Michel là anh ta sợ những người lạ, có thể từ ngoài trái đất tấn công bằng laze:

Laze tấn công tôi. Họ nhằm vào đầu tôi. Khi họ bắn là tôi biết bởi lúc đó là tôi rất đau đầu. Họ không bắn tôi liên tục. Họ đến rồi lại đi. Tôi không biết tôi đã phạm phải điều gì để họ hành hạ mình như vậy. Điều này đã kéo dài mấy năm. Họ thường bắn vào đầu tôi do vậy tôi phải đội mũ để bảo vệ đầu mỗi khi họ bắn. Tôi quấn cái mũ bằng tấm kim loại để nó hất ngược laze…và như vậy họ không thể bắn được tôi…tôi cho rằng họ liên kết với nhau để làm việc đó…lần cuối cùng họ bắn tôi là  vào sáng chủ nhật. Chúng làm tôi thức dậy - ý tôi nói các tia laze làm đầu tôi hầu như bị thương. Tôi không ra được khỏi giường vì đau quá. Tôi phải đội mũ bảo hiểm và luôn trong tư thế sẵn sàng để tránh bị đau…Điều đó thật tệ. Tôi thường dùng mũ của mình cản được laze, tuy nhiên thỉnh thoảng chúng cũng xuyên qua được. (có lẽ điều đó không phải là tình cờ khi hầu như cả buổi tối thứ 7 Michel uống bia ở một quán trong khu vực).

Còn trường hợp khác, do có những hoang tưởng cấp tính và nặng nên David được đưa vào nội trú. Mình trần như nhộng, David chạy trên đường phố và tuyên bố rằng anh ta là con của Chúa trời đến để bảo vệ mọi người, tránh các tội lỗi. Khi bị đưa vào viện, David tuyên bố:

Ta là Chúa cứu thế, ta là David, là người bảo vệ…Ta sẽ bảo vệ các người khỏi những tội lỗi mà các người mắc phải. Những tội lỗi đó có thể đưa các người tới lò thiêu của địa ngục chứ không phải thiên đàng của Chúa trời. Các người không được giữ ta…Chúa trời sẽ nổi giận với các người, với cả thế giới, Quỷ sẽ bắt các người vì các người can tội giữ ta ở đây…Thật là tuyệt, rồi các người sẽ bị giết vì dám giam giữ đứa con của Chúa…Ta đến đề bảo vệ thế giới…Các người không được giam giữ ta… Ta ở đây là theo ý Chúa và Jesu. Chúa chỉ nói với ta chứ không  nói với các người. Chúa đang tức giận về những thói xấu xa  của thế giới, về những việc mà con người đã làm… đó là tội lỗi, mọi thứ… những đôi cánh của các thiên thần sẽ bay đến và đưa ta ra khỏi nơi này.

Có khoảng 1% số người trưởng thành bị chẩn đoán là tâm thần phân liệt (APA 2000). Tỉ lệ mắc bệnh tương đối giống nhau ở các nước, các nền văn hoá khác nhau và qua các thời kỳ khác nhau. Lứa tuổi khởi phát thường ở vào độ tuổi 20-35. ở nữ, tuổi khởi phát thường muộn hơn 3-4 năm so với nam và có đỉnh thứ 2 ở vào thời kỳ mãn kinh. Đây là rối loạn dạng từng đợt, có những giai đoạn cấp tính và có những giai đoạn thuyên giảm. Wiersma và cs. (1998) đã tiến hành nghiên cứu thuần tập những người bị tâm thần phân liệt trong 15 năm kể từ pha bệnh đầu tiên, 2/3 số người có ít nhất một lần tái phát và sau mỗi lần tái phát 1/6 số trường hợp không hồi phục. 1/10 đã tự sát trong thời gian nghiên cứu. Các yếu tố liên quan đến tiên lượng tốt bao gồm khởi phát cấp tính, có yếu tố stress thúc đẩy và có thể xác định được, các triệu chứng dương tính chiếm ưu thế, có sự hỗ trợ tốt về mặt xã hội và trong tiền sử gia đình không có người bị tâm thần phân liệt.

Bài viết cùng chuyên mục

Mô hình gia đình các rối loạn sức khoẻ tâm thần

Dựa trên lí thuyết hệ thống mà người ta đã xây dựng những mô hình gia đình về rối loạn sức khỏe tâm thần và cách trị liệu của các rối loạn đó. Lí thuyết này xem gia đình hoặc những nhóm xã hội khác như là một hệ thống những cá nhân có  liên quan với nhau.

Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.

Trị liệu lo âu

Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.

Giải thích về trị liệu sinh học hành vi dị thường

Những giải thích và trị liệu sinh học các rối loạn tâm thần dựa trên cơ sở rằng hành vi và cảm xúc được điều hành bởi các hệ thống của não. Những hệ thống này cho phép chúng ta tiếp nhận thông tin, tích hợp thông tin với trí nhớ và các yếu tố nổi bật khá.

Trị liệu trầm cảm

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó.

Trị liệu tâm thần phân liệt

Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.

Những quan điểm hiện đại về tính dị thường

Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Những vấn đề chẩn đoán hành vi dị thường

Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.

Các lựa chọn của mô hình y khoa hành vi dị thường

Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường

Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường

Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.

Nguyên nhân những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Có rất nhiều tài liệu khác nhau tập trung vào những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm thần. Những yếu tố này không tác động một cách riêng rẽ mà có sự kết hợp với nhau tạo thành nguy cơ xuất hiện các rối loạn tâm thần ở cá nhân.

Những yếu tố trong phạm vi trị liệu hành vi bất thường

Việc tự bạch diễn ra khi nhà trị liệu kể cho thân chủ những câu chuyện tương ứng với tình huống của thân chủ, như những trải nghiệm tương tự, ý nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cá nhân.

Nguyên nhân của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là trung tâm của cuộc tranh luận khoa học về bản chất và vai trò của dinh dưỡng trong sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần. Có lẽ chiếm ưu thế là mô hình nguyên nhân của tâm thần phân liệt khi cho rằng nó có căn nguyên sinh học.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt của DSM

Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.

Tiến trình trị liệu hành vi bất thường

Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển phong phú và đa dạng của những phương pháp khác nhau, phỏng vấn lâm sàng vẫn là công cụ chính để tìm hiểu vấn đề của thân chủ. Shea (1998) đưa ra 6 mục tiêu của sự đánh giá ban đầu.

Điều trị tâm thần phân liệt

Hầu hết những người được chẩn đoán tâm thần phân liệt đều đã được dùng một loại thuốc nào đó mặc dù liều lượng có thể được giảm hoặc thậm chí được uống trong thời kì ổn định.

Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường

Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.

Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường

DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức hành vi dị thường

Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.

Bản chất và nguyên nhân trầm cảm

Hệ thống phân loại bệnh DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa một giai đoạn trầm cảm chủ yếu khi có sự xuất hiện của ít nhất 5 trong số các triệu chứng, trong tối thiểu 2 tuần.

Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường

Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hành vi dị thường

Người bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorder) trải qua cả trầm cảm và những giai đoạn hưng cảm. Theo DSM-IV-TR, cơn hưng cảm bao gồm ít nhất ba trong số các triệu chứng.

Nguyên nhân và trị liệu hành vi tự sát

Tự sát không phải là một rối loạn cảm xúc. Nó không chỉ liên quan duy nhất đến trầm cảm. Song, đây là một vấn đề nghiêm trọng và liên quan rõ rệt đến trầm cảm hơn bất cứ rối loạn sức khỏe tâm thần nào được nhắc đến trong phần này.

Rối loạn stress sau sang chấn

Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.

Rối loạn xác định phân ly

Một đặc tính của những cá nhân được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn xác định phân li (DID - dissociative identity disorder) là rằng họ cư xử như họ có hai hay nhiều hơn những bản thể hoặc nhân cách khác biệt.

Bằng chứng và phục hồi trí nhớ

Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.

Co thắt âm đạo hành vi bất thường

Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi tình dục là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận sinh dục.

Rối loạn xác định giới hành vi dị thường

Để giải thích mong muốn thay đổi dương vật, Ovesey & Person nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác.

Rối loạn chức năng tình dục

Chưa có nhiều những đánh giá về can thiệp nhận thức trong trị liệu rối loạn cương cứng, mặc dù Goldman và Carroll cũng đã thông báo kết quả của một số xemina.

Loạn dục cải trang hành vi dị thường

Lặp đi lặp lại những tưởng tượng kích thích hoặc đòi hỏi tình dục với cường độ mạnh hoặc các hành vi như mặc quần áo của người khác giới trong khoảng thời gian ít nhất là trên 6 tháng.

Loạn dục đa dạng hành vi bất thường

Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).

Loạn dục với trẻ em

Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.

Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường

Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).

Rối loạn nhân cách ranh giới hành vi dị thường

DSM-IV-TR định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới gồm các mối quan hệ liên cá nhân, hình ảnh bản thân, tình cảm không ổn định và có xung động rõ rệt. Nó khởi phát từ đầu thời thơ ấu và bao gồm 5 trong số những triệu chứng.

Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường

Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.

Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường

Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.

Khó học với hành vi dị thường

Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.

Tự kỷ với hành vi dị thường

Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.

Rối loạn tăng động giảm chú ý

Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.

Xơ vữa rải rác tâm lý dị thường

Tiến trình MS rất khác nhau ở các cá nhân. ít có trường hợp khởi phát trước 15 tuổi; 20% số trường hợp bị MS có dạng khởi đầu giống như một bệnh trong đó các triệu chứng hầu như không tiến triển sau khi xuất hiện.

Chấn thương sọ não tâm lý dị thường

Chấn thương sọ não kín xuất hiện khi đầu bị va chạm mạnh nhưng không có tổn thương hộp sọ hoặc vết thương não đặc biệt. Dạng chấn thương như vậy thường gây ra sự chấn động toàn bộ não trong hộp sọ và tổn thương lan toả.

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường

Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998).

Rối loạn thần kinh tâm lý dị thường

Trong chấn thương sọ não, các quá trình nhận thức cũng có thể bị tổn thiệt đáng kể, tuy nhiên sau đó nó có thể được hồi phục một phần

Đánh bạc bệnh lí tâm lý dị thường

Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy.

Sử dụng heroin tâm lý dị thường

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.

Lạm dụng rượu tâm lý dị thường

Rượu là một chất gây nghiện hợp pháp. Uống đến mức độ vừa phải, một vài loại rượu như rượu vang đỏ, có thể có lợi cho sức khỏe. Nhưng việc sử dụng rượu quá mức lại là có hại.