Sử dụng heroin tâm lý dị thường

2013-08-07 01:24 PM

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin. Heroin là loại ma tuý được sử dụng rộng rãi nhất. Ban đầu, nó được sử dụng như một loại thuốc an thần, giảm đau, ngày nay, tất cả các loại ma tuý được sử dụng ngoài mục đích y học đều được coi là bất hợp pháp. Sử dụng heroin cho những cảm giác hoàn toàn về sự ấm áp, thư giãn và sảng khoái. Sự lo lắng, sợ hãi và mọi quan tâm đều được quên đi và lòng tự tin tăng lên. Những ảnh hưởng này kéo dài trong khoảng thời gian 4-6 giờ, trước khi cá nhân “suy sụp” vì thiếu thuốc. Một khi đã phụ thuộc vào thuốc, cảm giác thiếu thuốc thường xuất hiện sau 8 giờ kể từ lúc tiêm thuốc, kéo theo cảm giác đau cơ bắp, đổ mồ hôi, hắt hơi và ngáp vặt. Trong vòng 36 giờ, triệu chứng trở nên càng lúc càng nặng hơn bao gồm co giật cơ bắp, chuột rút, lạnh toát toàn thân, đổ mồ hôi và tăng nhịp tim. Khi đó, người thiếu thuốc không thể ngủ được, nôn ọe và đi lỏng. Những triệu chứng này thông thường kéo dài 72 giờ, và sau đó giảm dần trong khoảng thời gian 5 đến 10 ngày.

Vào những năm 60 đến đầu những năm 90, heroin được sử dụng chủ yếu thông qua tiêm vào tĩnh mạch. Hiện nay, nó thường được sử dụng dưới dạng thuốc hút, một hành vi được gọi là “lên tiên”. Smyth và cs. (2000) thông báo số người sử dụng thuốc phiện ở Dublin tăng lên 330% trong vòng 5 năm từ 1991 đến 1996. Cũng trong khoảng thời gian này, tuổi của người lần đầu sử dụng heroin cũng giảm xuống và người sử dụng hút heroin nhiều hơn là tiêm. Họ có vẻ như có việc làm, trẻ hơn, sử dụng vài loại thuốc khác và trình độ học vấn cao hơn và có lịch sử sử dụng thuốc ngắn hơn những người tiêm thuốc. Hầu hết những người sử dụng heroin đều sử dụng cả các loại thuốc khác nữa. Beswick và cs. (2001) đã thông báo rằng 60% số người trong mẫu nghiên cứu của họ ở một phòng khám ở London cũng sử dụng cocaine, 58% uống rượu, 11% diazepam, 9% dùng methadone và 8% dùng bột cocaine trong thời gian họ sử dụng heroin.

Nguyên nhân sử dụng heroin

Yếu tố di truyền

Mặc dù những yếu tố môi trường chiếm ưu thế trong việc phát triển tình trạng nghiện ma tuý, vẫn có bằng chứng cho thấy khả năng dễ bị tổn thương mang tính di truyền liên quan đến việc lạm dụng ma tuý theo 2 con đường (Cadoret và cs. 1995). Con đường đầu tiên là con đường trực tiếp dẫn đến sự phụ thuộc ma tuý. Cadoret và đồng nghiệp đã thấy rằng những đứa trẻ con nuôi có cha mẹ đẻ lạm dụng hoặc phụ thuộc rượu có nguy cơ phát triển sự phụ thuộc ma tuý gấp 3 lần so với nhóm trẻ có cha mẹ không phụ thuộc rượu. Các tác giả cũng cho rằng có thể tiềm ẩn gen “nhân cách nghiện ngập” hơn là gen cho sự nghiện ma túy cụ thể. Con đường thứ hai gián tiếp, theo Cadoret, mối liên hệ di truyền đến hành vi chống đối xã hội,  dẫn đến sự hung hãn, rối loạn hành vi, nhân cách chống đối xã hội và thường là lạm dụng rượu hoặc ma tuý. Như với nghiện rượu, gen dopamine D2 có thể đóng góp vào nguy cơ phụ thuộc ma túy.

Yếu tố sinh học

Cũng như với rượu, hoạt động của ma túy là do ảnh hưởng của nó lên hệ thống dopamine trong “trung tâm sảng khoái”. Cơ chế thứ hai qua đó ma túy ảnh hưởng đến tâm trạng, sắc thái và cảm giác thoải mái là thông qua tác dụng của các chất hóa học tương tự với nó như endorphins và enkephalins. Những chất này xoa dịu cảm giác đau đớn, tạo ra cảm giác thoải mái, dễ chịu, ví dụ như góp phần vào việc tăng sức chịu đựng thể chất ở một vận động viên đang hoạt động với cường độ cao. Các opiate lại gắn kết với những thụ thể giống như endophins và enkephalins, dẫn đến một trạng thái sảng khoái như có một hiệu quả của thuốc an thần. Cả hai chất hóa học đều có ở các tổ chức não, tuy nhiên chúng tập trung cao ở não giữa, đồi thị và dưới đồi cũng như tuỷ sống.

Yếu tố văn hóa - xã hội

Chỉ có khoảng 20% những người ban đầu sử dụng ma túy với mục tiêu đầu tiên là tìm kiếm khoái cảm (Nutt và Law 2000). Những lí do khác bao gồm tự điều trị, áp lực xã hội và sự tìm kiếm những trải nghiệm kì bí và “có ý nghĩa”. Những nghiên cứu cộng đồng người sống trong môi trường luôn có căng thẳng cho thấy có sự sử dụng heroin như một cách thức tự trị liệu hoặc giảm stress. Có lẽ bằng chứng kịch tính nhất là khoảng 40% lính Mỹ đã sử dụng heroin trong chiến tranh Việt Nam và có khoảng 1% tiếp tục sử dụng nó khi đã quay về Mỹ (Grinspoon và Bakalar 1986). Việc nhiều người bị rối loạn stress sau sang chấn, rối loạn ăn, tâm thần phân liệt sử dụng heroin cũng là bằng chứng để khẳng định thêm cho giả thuyết trên (Najavitis và cs. 1998).

Con đường thứ hai dẫn đến việc sử dụng heroin là sử dụng ma tuý leo thang bởi vì những người sử dụng tìm kiếm một trải nghiệm “cao hơn” hoặc là khác đi với những gì họ đã đạt được. Việc sử dụng thường dẫn đến lạm dụng và rồi là sự phụ thuộc bao gồm khả năng dung nạp ma tuý tăng lên, việc dùng ma tuý bắt buộc và triệu chứng cai nếu người nghiện không có thuốc dùng thường xuyên. Dùng chung kim tiêm là một hiện tượng khá phổ biến và có thể chứa đựng yếu tố xã hội hoặc tập quán. Với rất nhiều người nghiện, để duy trì thói quen dùng ma tuý có thể là đắt và vượt quá khả năng tài chính của họ đặc biệt khi họ có khó khăn trong vấn đề tiền bạc hay không muốn bị mất việc. Do vậy để có được tiền mua ma tuý họ thường trộm cắp: hơn 95% người nghiện thuốc ma tuý ở Mĩ cho biết là có phạm tội để có được tiền mua ma tuý (Hội đồng phát triển đồng thuận về trị liệu hiệu quả đối với nghiện opiate Viện Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia - NIH Consensus Development Panel on Effective Treatment of Opiate Addiction 1998). Nhiều người nghiện không giữ được chỗ làm vì phần lớn thời gian của họ là dành cho việc tìm kiếm và sau đó là sử dụng ma tuý. “Sự nghiệp nghiện ngập” thường bao gồm những vòng tròn của việc ngừng dùng thuốc, sau đó là tái nghiện, thường là nhiều năm. Khoảng 1/4 đến 1/3 số người sử dụng sẽ chết do một nguyên nhân có liên quan đến ma tuý, thường là việc dùng quá liều. Một ví dụ cho câu chuyện này là của Dai, 29 tuổi, lớn lên tại một khu kinh tế địa phương phụ cận nam Wales. Đây là câu chuyện về việc sử dụng ma tuý của anh ta và những vấn đề liên quan cũng như nó được duy trì như thế nào bởi bởi ít nhất là một phần bởi của xã hội mà anh ta sống:

Tôi bắt đầu hút thuốc lá năm lên 9... bỏ học - tụ tập với bạn bè - một vài đứa là hơn tuổi - chỉ tụ tập chơi bời suốt ngày - không lo nghĩ - chỉ đi lang thang khắp phố cả ngày. Sớm hít keo dán - và cứ làm thế trong khoảng 1 năm, 1 năm rưỡi. Lúc đầu cũng không thường xuyên nhưng làm đó hầu ngày nào cũng làm. Một đứa trong số chúng tôi sẽ có một cái túi và keo. Chúng tôi có những cảm giác thú vị. Thật đấy!

Chuyển lên dùng chất ma túy vào tuổi 12. Làm như thế với lũ bạn. Nằm cả ngày ở nhà một đứa nào đó và dùng ma túy. Sướng đ. chịu được! Vẫn hút. Tôi có cảm giác êm ái. Nhưng rồi tiếp tục với những chất nặng hơn. Tôi dùng nó năm 12 tuổi và một thứ nào đó khác. Tôi chỉ dùng vào những ngày cuối tuần, và dùng kèm với rượu bia nhẹ... Nó giúp chúng tôi tiếp tục, tiếp tục. Rất tốt cho việc nhảy...

Sau một thời gian, tôi dùng chất đó hàng ngày - nó bắt đầu trở nên đắt đỏ vì thế tôi bắt đầu ăn trộm, xoay chỗ này, chỗ khác, trộm ôtô. Gặp rắc rối với cớm - ra tòa vài lần. Nộp phạt nên lại phải trộm cắp
nữa.

Một lần bị bố mẹ phát hiện ra và đưa tới cớm. Lần đầu tiên họ phát hiện ra tôi dùng ma túy. Bố tôi đánh rất dữ. Bị cấm cửa - điều đó thật chẳng tốt tí nào. Sự đạo đức giả của ông già thôi mà - uống rượu thì nhiều nhưng nhất quyết phản đối ma túy. Dù sao thử dùng một dạng khác như LSD, các loại viên (benzodiazepines), Temazies, E's, cứ thế lên xuống. 16 tuổi. Đầu tôi không chứa gì ngoài ma túy, một đứa trong hội của tôi hỏi liệu tôi có muốn một chút thuốc tiêm không. Tôi đã nói "có!". Bất cứ cái gì để có cảm giác thú vị. Nó đã tiêm cho tôi. Thế đấy. Thật ’đã’! Tôi cứ nghĩ mình là siêu nhân! Tôi có thể làm tất cả mọi thứ. Ngưng dùng các loại ma túy nặng - tôi dùng thuốc tiêm.

Bỏ học năm 16 tuổi. Bố mẹ biết tôi đang chích ma tuý. Họ đã đưa tôi đến rất nhiều bác sĩ nhưng chẳng ích gì. Vì thế họ đã phủi tay trước trách nhiệm với tôi - không buồn biết - cũng chẳng quan tâm đến các vấn đề của tôi. Tham gia vào hội bạn trong một thời gian. Có được một ngôi nhà trong cư xá thành phố rất nhanh chóng. Nhưng cũng sớm bị ném ra đường vì không thể trả tiền thuê nhà! Tôi không giỏi trong việc trả tiền thuê nhà cho lắm!

Chích ma tuý đã làm cho tôi rắc rối. Dùng ma tuý càng nhiều tôi càng cần đến nhiều tiền hơn. Vì thế, tôi đã bắt đầu tham gia đột nhập nhà và cuỗm đồ - luôn bị tóm. Ban đầu thì nhẹ nhàng thôi, sau đó là thời gian thử thách và rồi đến thời gian trong tù. Nhưng điều đó không giúp tôi bỏ được ma tuý. Bạn có thể có được mọi thứ bạn muốn ở trong tù miễn là bạn tìm đến đúng người. Đi tù lần đầu chỉ trước sinh nhật lần thứ 18 của tôi - 4 tháng cho tội ăn trộm.

Tóm lại, tôi đã ra vào tù trong suốt 12 năm qua. Cũng có vài bạn gái. Sống chung với một người phụ nữ trong 3 năm. Có một con gái với cô ta - thỉnh thoảng đến thăm cô ấy, nhưng không nhiều. Họ không đến thăm tôi khi tôi ở trong tù...

Ma tuý chiếm giữ tôi và tôi không thể thoát khỏi nó. Lũ bạn tôi đều dùng ma tuý. Tôi không quen ai mà không nghiện ma tuý. Tôi chẳng còn gì nữa. Không thử  bỏ ma tuý lấy một lần. Có tham gia một chương trình trong tù. Ra khỏi tù hết nghiện và duy trì được trong 3 tháng. Họ để tôi ở khu ký túc xá, vì thế tôi không gặp tụi bạn... Dừng dùng thuốc ở "thế giới thực"... Nhưng rồi tôi phải rời đi vì họ không có tiền để cho tôi ở đó nữa. Vì thế tôi lại trở lại với chốn cũ và sớm trở lại với ma túy để sau đó lại phải cố gắng cai...

Không hứng thú với ma túy nữa. Tôi bị chìm trong cái vòng luẩn quẩn - dùng ma túy, ăn cắp, vào tù, lại dùng ma tuý... Không cảm thấy dễ chịu khi dùng ma túy nữa. Tôi phải dùng nó vì thế nó không vẩn vơ trong đầu tôi. Tôi cố gắng để thoát khỏi nó - ngừng dùng thuốc. Tôi dùng methadone thay cho morphin và heroin vì thế tôi có thể ngừng dùng ma túy. Nhưng họ không cho tôi đủ... tôi vẫn gặp phải triệu chứng cai - đánh trống ngực, ra mồ hôi, chuột rút. Vì thế tôi vẫn phải dùng - nhưng ít hơn trước - trước đây 3 gói mỗi ngày, bây giờ là 1 gói, 1 gói rưỡi một ngày. Tôi sẽ thử dùng thêm methadone cố gắng tránh xa chích ma tuý nhưng họ không muốn đưa cho bạn quá nhiều.

Yếu tố tâm lí

Những yếu tố tâm lí liên quan đến việc sử dụng ma tuý tương tự như những yếu tố liên quan đến việc sử dụng rượu (đã đề cập phần đầu chương). Như thế, khoái cảm của việc dùng ma tuý thiếp lập quá trình điều kiện hóa quan sát được. Trong quá trình này, phần thưởng cho cá nhân là sự dễ chịu, giảm nhẹ căng thẳng  do dùng ma túy và sau nữa là tránh được các triệu chứng cai. Điều kiện hóa cổ điển gây ra sự thèm muốn heroin khi người sử dụng rơi vào hoàn cảnh tương tự  với lần sử dụng trước đó. Những đáp ứng có điều kiện này khá mạnh và bền vững theo thời gian. Ví dụ, Meyer (1995) thông báo rnhìn thấy bơm tiêm đã làm giảm nhẹ các triệu chứng cai trong khi đói heroin. Ngược lại, những gới nhớ đế cai đã được điều kiện hóa có thể gây ra các triệu chứng, thậm chí nhiều năm sau khi thôi không dùng heroin nữa. Những yếu tố nhận thức cũng tham gia vào sự mong chờ trạng thái dễ chịu sợ hiện tượng cai.

Lí thuyết quá trình đối lập của Solomon (1980) cho rằng những cơ chế thần kinh dẫn đến những cảm xúc dễ chịu có thể gợi lại một hiệu ứng khác trong đó tiếp theo trạng thái “phê” là những tác dụng âm tính ngược vô hình (thành phần đối lập). Đây là trạng thái cảm thấy tồi tệ hơn thường lệ. Chính vì vậy họ ngày càng được thúc đẩy tránh né những hậu quả âm tính và không sảng khoái, dễ chịu như lúc ban đầu dùng ma tuý. Bằng chứng là có nhiều người nghiện ma tuý có lo âu và trầm cảm tăng theo thời gian (Roggla & Uhl 1995). Mặc dù vậy, cơ chế thần kinh như Solomon đề xuất vẫn chưa được chứng minh.

Trị liệu việc sử dụng heroin

Những tiếp cận giảm thiểu tác hại: tiếp cận văn hóa - xã hội

Những chiến lược giảm thiểu tác hại không cố gắng điều trị sự nghiện ngập. Thay vào đó, họ giảm tác hại liên quan đến việc sử dụng ma túy hoặc bằng cách thay thế heroin bằng một loại dược phẩm uống an toàn hơn như methadone, hoặc giảm nguy cơ nhiễm trùng bằng việc bảo đảm những người tiếp tục tiêm ma túy sử dụng những cái kim tiêm sạch sẽ, vô trùng.

Duy trì methadone

Methadone là một chất đối vận opiate. Những chương trình thay thế methadone cung cấp cho những người sử dụng opiate thuốc uống làm cho họ không tưởng nhớ tớiviệc sử dụng opiate, đồng thời cũng tránh được những triệu chứng cai khi ngưng sử dụng opiate. Sử dụng methadone tập trung vào phòng ngừa những nguy cơ dùng chung kim tiêm và quá liều, và để tránh trạng thái cai cá nhân bắt đầu tìm kiếm sự giúp đỡ: đây là thời gian có thể có nhiều lộn xộn trong cuộc sống của họ. Methadone có thể được kê đơn vào nhiều đợt trong một năm hoặc hơn, trong suốt thời gian đó, người dùng thuốc cố gắng ổn định cuộc sống và chuẩn bị cho giai đoạn thôi dùng nó. Hàng ngày những người cai nghiện phải báo cáo với trung tâm cai nghiện và được cấp thuốc cho ngày hôm sau. Những trung tâm phải giữ liên lạc với những dịch vụ hhõ trợ để ngăn ngừa người nghiện đem thuốc ra bán ở chợ đen.

Cách tiếp cận này tỏ ra tương đối thành công. Trong một nghiên cứu có quy mô lớn nhất về hiệu quả của nó - Nghiên cứu kết quả trị liệu lạm dụng ma tuý (Hubbard và cs. 1997) đã theo dõi gần 3000 người điều trị ngoại trú bằng methadone. Sau một năm số người sử dụng heroin hàng tuần hoặc hàng ngày giảm từ 90% xuống còn 30%. Chỉ có 17% trong số họ tiếp tục duy trì chương trình trong 1 năm là tiếp tục sử dụng heroin. Những lí do đựơc đưa ra để lí giải việc tiếp tục sử dụng heroin là liều methodone quá thấp, ham muốn có được cảm giác “phê”, sức ỳ mặc cảm mình là một “con nghiện”, và việc sống với một người bạn tình hoặc duy trì những mối quan hệ xã hội với những người vẫn chích ma túy (Avants và cs. 1999).

Đổi kim tiêm

Chương trình đổi kim tiêm cũ lấy cái mới nhằm ngăn ngừa dùng chung, giảm nguy cơ lây truyền các bệnh như HIV hoặc viêm gan. Một số nhóm phe cánh hữu và theo nhà thờ ở Mĩ đã lên án cách tiếp cận này, buộc tội rằng nó đã duy trì hoặc thậm chí ủng hộ, khuyến khích việc dùng ma túy. Vì thế ở Mỹ, chương trình đổi kim tiêm chỉ được cho phép ở một số bang, đối một số bang khác lại là bất hợp pháp. Ví dụ, báo cáo của Mạng trao đổi bơm tiêm ở vùng bắc Mỹ (xem Yoast và cs. 2001) cho thấy  trong số một mẫu gồm 100 chương trình của Mỹ, 52 là hợp pháp, 16 là bất hợp pháp nhưng “chịu được”, trong khi đó 32 là “ngầm”. Những nghiên cứu bổ dọc cho thấy ở đâu việc đổi bơm tiêm không đựơc chấp nhận một cách hợp pháp, ở đó những chương trình trao đổi kim có hiệu quả trong việc giảm sử dụng dùng chung kim (Gibson và cs. 2001). Hầu hết những nghiên cứu cũng cho thấy những người chích ma tuý nếu có tham gia vào chương trình đổi kim tiêm thì tỉ lệ mắc HIV thấp hơn so với những người không tham gia.   Tuy nhiên người ta cũng cho rằng kết quả này không bền vững bởi những người đã hạn ché dùng chung bơm tiêm song vẫn có thể có những hành vi nguy cơ khác như tình dục không an toàn.

Một nghiên cứu cuối cùng và có lẽ là quan trọng được công bố từ khi có báo cáo của Gibson và cộng sự (Taylor và cs. 2001) đã báo cáo về tỉ lệ sử dụng dùng chung kim tiêm  ở Scotland từ 1990 đến năm 1999. Kết quả cho thấy có sự hạ thấp trong việc dùng chung kim tiêm năm từ 1990 đến 1992 sau khi có chương trình đổi kim tiêm. Tuy nhiên sau đó lại tăng dần do dùng chung với bạn tình hoặc “một người quen bất chợt”, mặc dù họ vẫn được tiếp tục cung cấp . Những dữ liệu này phản ánh một một số thay đổi những hành vi nguy cơ trong nhóm dân cư đang có nguy cơ nhiễm HIV. ở đây những thay đổi ban đầu hướng về hành vi an toàn hơn đã bị thu hẹp lại và theo thời gian, những hành vi có nguy cơ hơn lại quay trở lại. Những lí do giải thích cho điều này là không rõ ràng, cũng có thể do nhận thức chưa đầy đủ  về HIV/AIDS tại Anh và tin rằng AIDS có thể được “chữa khỏi”.

Cai nghiện

Hầu hết những can thiệp được mô tả dưới đây theo sau một giai đoạn cai. Liều methadone được giảm một cách từ từ sau một khoảng thời gian là vài tuần để giảm thiểu các triệu chứng cai. Cai ngắn hạn bao gồm nhanh chóng giải độc kèm theo các triệu chứng cai. Những triệu chứng này được kiểm soát bởi với những triệu chứng khi cai được kiểm soát bởi những chủ vận opiate khác như clonidine. Điều này giúp giảm chứ không hoàn toàn tránh được triệu chứng cai. Những chiến lược này có thể được sử dụng trong cả điều trị nội và ngoại trú và có thể qua được hoàn toàn trạng thái cai trong vòng 3 ngày.

Trị liệu bằng thuốc

Một cách trị liệu bằng thuốc là dùng những loại có tác dụng ngược với heroin. Naltrexone là một loại đối chủ vận opiate có tác dụng gắn kết hợp với những thụ thể opioid trong não và làm vô hiệu hoá tác động của các opiate. Nó cần phải được uống thường xuyên để ngăn ngừa trạng thái “phê” khi dùng ma tuý. Khoảng 3% số người được đề nghị dạng can thiệp này đã đồng ý tuy nhiên rất nhiều người dùng thuốc không đều. Điều này dẫn đến hậu quả là không cai được ma tuý, sợ thuốc mới hoặc lệ thuộc kéo dài hoặc sự thiếu động cơ xác thực để thôi dùng thuốc miễn phí (Tucker và Ritter 2000). Trong số những cá nhân có động cơ cao, những người dùng naltrexone có kết quả rất tốt. Điều này dẫn đến ít thèm ma tuý hơn, thời gian bỏ thuốc hoàn toàn kéo dài hơn và những cải thiện chức năng tâm lí xã hội cũng lớn hơn so với placebo. Mặc dù có những thành công như vậy nhiều người vẫn tái sử dụng ma tuý sau trị liệu. Sau 18 tháng theo dõi, tỉ lệ bỏ ma tuý hoàn toàn cao tới 64% ở những cá nhân được hỗ trợ tốt và khả năng đương đầu cao, thường gặp   là tỉ lệ khoảng từ 31% đến 53% (Tucker và Ritter 2000).

Những tiếp cận tâm lí học

Chương trình điều kiện quan sát được

Nhiều người dùng methadone song vẫn tiếp tục sử dụng ma túy (xem ca của Dai). Trong một cố gắng để giảm thiểu điều này, Gruber và cs. (2000) đã nghiên cứu xem liệu việc đưa ra những phần thưởng từ bên ngoài cho những người đang tham gia điều trị bằng methadone có thể làm tăng tính tích cực và thôi dùng ma túy. Động cơ để tham gia những buổi tham vấn bao gồm tặng vé đi lại bằng xe buýt và thanh toán những hoá đơn cho những hoạt động được nhà tham vấn của họ đồng ý. Cũng như động cơ cho việc thôi dùng ma tuý, những người tham gia được tham gia một số hoạt động giải trí cuối tuần miễn phí, ăn trưa và một khoản tiền khiêm tốn thanh toán hoá đơn. Cách làm này đã được so sánh với cách điều trị chuẩn mà ở đó thân chủ được khuyến khích để tham gia vào cách chữa trị với methadonevà không có thưởng. Sau một tháng, 61% những người tham gia theo cách này so với 17% số người nhóm điều trị chuẩn thực sự hợp tác điều trị và 50% những người tham gia so với 21% của nhóm đối chứng đã đạt được 30 ngày không dùng heroin.

Trị liệu hành vi nhận thức

Mặc dù đã có hiệu quả trong điều trị các vấn đề liên quan đến rượu, song vẫn còn tương đối ít những nghiên cứu hiệu quả của chương trình trị liệu hành vi nhận thức đối với người tiêm chích ma túy. Một trong vài can thiệp như thế (Woody và cs. 1983), đã được kiểm tra xem liệu tham vấn tâm lí động thái hỗ trợ hay trị liệu hành vi nhận thức tăng cường hiệu quả của việc duy trì methadone và tham vấn thuốc chuẩn. Tham vấn trong tâm lí động thái bao gồm những kĩ thuật khuyến khích để thúc đẩy một môi trường trị liệu ở đó cá nhân khám phá những kiểu hình quan hệ của mình và “thấu hiểu” những đề tài  của các mối quan hệ. Đặc biệt chú ý đến những đề tài liên quan đến sự phụ thuộc ma túy, vai trò của ma túy trong mối quan hệ với những cảm xúc và hành vi có vấn đề, và những vấn đề này cần được giải quyết như thế nào mà không cần đến ma túy. Trị liệu hành vi nhận thức dựa theo mô hình phòng ngừa tái phát đã mô tả ở trên trong phần về rượu. Tham vấn dùng thuốc chuẩn bao gồm khuyến khích, trợ giúp, giám sát việc sử dụng thuốc và khám phá những vấn đề hiện tại. Cả 2 dạng điều trị bổ sung đều làm tăng thêm hiệu quả của tham vấn cho đến 1 năm theo dõi sau điều trị theo các tiêu chí như tình trạng lao động (nghề nghiệp), những vấn đề về luật pháp, triệu chứng tâm thần và mẫu xét nghiệm nước tiểu ma túy âm tính. Không có điều trị nào là hiệu quả hơn điều trị nào.

Liệu pháp cặp đôi (couples therapy)

Cũng giống như những vấn đề về rượu, liệu pháp cặp đôi có thể hiệu quả hơn liệu pháp cá nhân trong trị liệu phụ thuộc ma túy. Trong tổng quan về những can thiệp với 1500 người sử dụng ma túy, Stanton và Shadish (1997) báo cáo rằng những người mà đã trải qua trị liệu cặp đôi đã phát triển được các mối quan hệ và dùng ít ma túy hơn cả trong thời gian ngắn và dài so với các nhóm đối chứng gồm trị liệu cá nhân hoặc không tham gia khóa trị liệu nào. Thêm nữa, tỉ lệ bỏ ngang trị liệu thấp hơn đáng kể so với bất kỳ một cách trị liệu nào khác. Điều này rất quan trọng vì nó có nghĩa là nhiều người có được những can thiệp hiệu quả cao thì vài người trong số đó lại là những cá nhân có động cơ yếu hơn và dễ dàng bỏ ngang trị liệu ở các cách tiếp cận khác. Rằng trị liệu cặp đôi vẫn tỏ ra hiệu quả hơn, kể cả đối với nhóm thân chủ "khó trị ", củng cố kết quả ở mức độ cao.

Bài viết cùng chuyên mục

Loạn dục đa dạng hành vi bất thường

Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).

Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường

DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Trị liệu lo âu

Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.

Rối loạn tăng động giảm chú ý

Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức hành vi dị thường

Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.

Trị liệu trầm cảm

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó.

Nguyên nhân của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là trung tâm của cuộc tranh luận khoa học về bản chất và vai trò của dinh dưỡng trong sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần. Có lẽ chiếm ưu thế là mô hình nguyên nhân của tâm thần phân liệt khi cho rằng nó có căn nguyên sinh học.

Tự kỷ với hành vi dị thường

Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.

Trị liệu tâm thần phân liệt

Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.

Bản chất và nguyên nhân trầm cảm

Hệ thống phân loại bệnh DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa một giai đoạn trầm cảm chủ yếu khi có sự xuất hiện của ít nhất 5 trong số các triệu chứng, trong tối thiểu 2 tuần.

Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường

Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.

Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường

Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.

Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường

Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.

Các lựa chọn của mô hình y khoa hành vi dị thường

Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường

Những vấn đề chẩn đoán hành vi dị thường

Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.

Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường

Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.

Rối loạn thần kinh tâm lý dị thường

Trong chấn thương sọ não, các quá trình nhận thức cũng có thể bị tổn thiệt đáng kể, tuy nhiên sau đó nó có thể được hồi phục một phần

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hành vi dị thường

Người bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorder) trải qua cả trầm cảm và những giai đoạn hưng cảm. Theo DSM-IV-TR, cơn hưng cảm bao gồm ít nhất ba trong số các triệu chứng.

Loạn dục với trẻ em

Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.

Bằng chứng và phục hồi trí nhớ

Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.

Giải thích về trị liệu sinh học hành vi dị thường

Những giải thích và trị liệu sinh học các rối loạn tâm thần dựa trên cơ sở rằng hành vi và cảm xúc được điều hành bởi các hệ thống của não. Những hệ thống này cho phép chúng ta tiếp nhận thông tin, tích hợp thông tin với trí nhớ và các yếu tố nổi bật khá.

Loạn dục cải trang hành vi dị thường

Lặp đi lặp lại những tưởng tượng kích thích hoặc đòi hỏi tình dục với cường độ mạnh hoặc các hành vi như mặc quần áo của người khác giới trong khoảng thời gian ít nhất là trên 6 tháng.

Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.

Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường

Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường

Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998).

VIDEO: HỎI ĐÁP Y HỌC