Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường

2013-08-08 11:18 AM

Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Mãi đến giữa những năm 1980, rối loạn cảm xúc theo mùa ( SAD - seasonal affective disorder) mới được nhìn nhận là một rối loạn riêng biệt. (Rosenthal và cs. 1984). DSM-IV-TR (APA 2000) đã mô tả rối loạn này với những đặc điểm sau:

Mối quan hệ thời gian có tính quy luật giữa sự khởi phát một pha trầm cảm và một khoảng thời gian cụ thể trong năm.

Bệnh hoàn toàn thuyên giảm trong những khoảng thời gian nhất định của năm.

Trong 2 năm trước đó phải có 2 pha trầm cảm chủ yếu (đảm bảo những tiêu chí nói trên) diễn ra.

Số lượng các pha trầm cảm theo mùa nhiều hơn số lượng các pha trầm cảm không theo mùa.

Các đặc điểm của SAD có vẻ hoàn toàn khác với trầm cảm chủ yếu và bao gồm tăng cảm giác ngon miệng thèm ăn các chất bột, tăng cân, ngủ nhiều, cũng như các triệu chứng trầm cảm khác. Đặc thù của các cơn mùa đông là bắt đầu vào tháng 11 và diễn ra trong khoảng 5 tháng. Những người bị SAD sẽ thuận lợi hơn nếu họ sống ở những vùng thấp với mùa đông ngắn hơn. Những triệu chứng của họ sẽ xấu hơn nếu họ dời đi theo hướng ngược lại (Rosenthal và cs. 1984).

Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD. Còn những người mà sự thay đổi về hoạt động và trọng lượng theo mùa ít không lớn thì vẫn trong cộng đồng. Terman (1988) đã nhận định rằng vào những tháng mùa đông, 50% dân số nói chung giảm năng lượng, 47% tăng cân, trong khi 31% giảm các hoạt động xã hội; 25% trong số những thay đổi đó kéo theo những vấn đề cá nhân. Wick và cs. (1992)  cho thấy 3% trong nhóm nghiên cứu thuần tập người Đức bộc lộ hoặc là rối loạn cảm xúc theo mùa, hoặc là dạng ‘cận hội chứng’ SAD 2 lần trong 2 năm liền nhau. Tỉ lệ SAD ở Scotland vào khoảng 3,5% (Eagles và cs. 1999).

Nguyên nhân của rối loạn cảm xúc theo mùa

Những giải thích về SAD hầu như chỉ có tính chất sinh học.

Yếu tố di truyền

Mặc dù gần đây người ta rất quan tâm đến SAD, song vẫn có rất ít nghiên cứu khảo sát vai trò của yếu tố di truyền trong nguyên nhân của SAD. Tuy nhiên, Madden và cs. (1996) đã nghiên cứu sự trùng hợp đối với SAD trên một mẫu lớn những cặp sinh đôi cùng trứng và khác trứng. Họ cũng tiến hành đo lường một số lượng lớn những biến số môi trường và xác định sự quan trọng tương đối của di truyền và các biến số môi trường. Nhóm nghiên cứu này kết luận rằng khoảng 29% khác biệt trong nguy cơ bị SAD có thể quy cho yếu tố di truyền.

Giả thuyết về melatonin

Melatonin có liên quan đến SAD. Đó là một loại hoc mon được giải phóng vào buổi tối, từ tuyến tùng (pineal gland) nằm ở dưới vỏ não, sau đó xuất hiện ở não giữa và phần dưới đồi. Nó kiểm soát giấc ngủ và việc ăn uống. ở động vật có vú sống hoang dã, sự giải phóng melatonin ban đêm dài hơn sẽ làm giảm hoạt động của chúng, làm chúng chậm chạp và chuẩn bị cho chúng quá trình nghỉ đông hoặc trú đông. Theo thuyết trầm cảm liên quan đến melatonin, nó cũng có hiệu ứng tương tự ở con người, mặc dù đa số chúng ta có khả năng vượt qua tác động của nó và giải quyết những vấn đề của mình. Song, một số cá nhân tỏ ra đặc biệt nhạy cảm với sự tăng melatonin vào những tháng mùa đông và thể hiện chậm chạp rõ rệt, điều thể hiện khá rõ nét trong các triệu chứng của SAD (Blehar & Rosenthal, 1989). Trong những trường hợp ngược lại của SAD, một số cá nhân dường như bị sự giảm melatonin ảnh hưởng đến vào mùa hè và trải qua những giai đoạn khí sắc hưng phấn và vui vẻ. Chứng cứ về vai trò của melatonin phần nào đó còn gây nhiều mâu thuẫn. Trong khi một số nghiên cứu đã tìm ra được mối liên quan giữa lượng melatonin và sự khởi phát cũng như mức độ nghiêm trọng của SAD, dù không phải luôn luôn là thế, song vai trò của nó trong nguyên nhân gây ra SAD vẫn chưa được hiểu hoàn toàn.

Giả thuyết về hoạt động hàng ngày

Để thêm vào giả thuyết về melatonin, Lewy và cs. (1998) đã đưa ra giả thuyết rằng ngoài việc lượng melatonin đóng vai trò quyết định đối với khí sắc, thì thời điểm mà nó giảm sút đi mới là quan trọng đối với sự khởi phát và duy trì SAD. Trong giả thuyết về sinh hoạt thường ngày của họ, họ cho rằng trầm cảm bình thường có thể do tình trạng thiếu ngủ được gây ra bởi sự phá vỡ vòng tuần hoàn ngủ-thức hàng ngày. Đối với SAD, theo nhóm nghiên cứu này, những thay đổi về thời gian của lúc bình minh và hoàng hôn trong quá trình chuyển từ mùa đông hè sang mùa đông đã làm thay đổi thời gian mà melatonin được giải phóng, dẫn tới sự thay đổi nhịp điệu giấc ngủ hàng ngày, kéo nó ra khỏi sự liên kết với các nhịp điệu sinh học khác. Mục đích của liệu pháp là phải thiết lập lại các pha của vòng tuần hoàn ngủ-thức như trong mùa hè. Theo Lewy, có thể làm được điều này bằng cách phơi mình trong ánh sáng vào buổi sớm, điều này giúp cá nhân duy trì được tuần hoàn thức-ngủ của mùa hè và duy trì được lượng melatonin cho đến cuối ngày. Điều này, cùng với việc ngủ sớm hơn vào buổi tối, tỏ ra là một phương pháp điều trị SAD có hiệu quả. Công việc của chính nhóm nghiên cứu này đã ủng hộ giả thuyết của họ, khi họ tìm ra rằng liệu pháp ánh sáng vào buổi sớm có hiệu quả cao hơn nếu chúng ta làm được điều đó vào buổi tối: tác dụng có thể giữ được miễn là cá nhân duy trì thời gian ngủ và thức của họ như trong mùa hè (Lewy và cs. 1998).

Giả thuyết về serotonin

Giả thuyết cuối cùng được đưa ra là ít nhất cũng có một vài cơ chế tiềm ẩn trong SAD không phải là đặc biệt đối với hội chứng này, và có lẽ chính chúng lại là một dạng khác của trầm cảm mà thôi. Có rất nhiều yếu tố để có thể coi serotonin là nguyên nhân của SAD. Serotonin liên quan đến sự kiểm soát chế độ ăn uống và giấc ngủ, và nó là  tiền chất của melatonin. Lượng serotonin thay đổi theo mùa, và việc làm giảm lượng serotonin bằng cách loại bỏ một tiền chất đối với serotonin, chất trytophan, trong chế độ ăn, dẫn đến các triệu chứng trầm cảm trong suốt mùa hè ở những người có biểu hiện điển hình SAD trong mùa đông (Neumeister và cs. 1997). Một chứng cứ rõ ràng hơn về vai trò của serotonin được thấy từ điều trị thử nghiệm bằng SSRIs. Cả sertraline và fluoxetine đều đã tỏ ra có tác dụng ở mức độ vừa phải trong điều trị SAD. Tuy nhiên, nhìn chung những phương pháp này không hiệu quả bằng liệu pháp ánh sáng (Partonen và Lonnqvist 1998), cho thấy rằng dù cho lượng serotonin có thể là một nguyên nhân ngầm ẩn của SAD, nó cũng không hoàn toàn thuyết phục.

Điều trị rối loạn cảm xúc theo mùa

Phương pháp điều trị SAD đã được thừa nhận là điều trị bằng ánh sáng trắng (“bright light” treatment), phương pháp khắc phục sự giảm lượng melatonin. Đặc trưng của phương pháp này là cá nhân phơi mình trong ánh sáng nhân tạo mạnh, dao động từ 2.500 luxơ trong 2 giờ đến 10.000 luxơ trong nửa giờ mỗi ngày trong khoảng thời gian từ 1 đến 3 tuần. Để tiện so sánh, cần biết rằng thông thường, ánh sáng trong nhà chỉ ở mức 100 luxơ hoặc ít hơn. ánh sáng ở ngoài có thể từ 2000 luxơ hoặc ít hơn trong ngày mưa mùa đông và 10.000 luxơ dưới ánh nắng mặt trời trực tiếp.

Những can thiệp này tỏ ra có hiệu quả. Trong siêu phân tích những nghiên cứu có liên quan, Terman và cs. (1989), đã báo cáo về một sự cải thiện đáng kể trong 67% người bị SAD nhẹ và 40% người rối loạn vừa và nặng, được điều trị bằng liệu pháp ánh sáng: kết quả còn tốt rõ rệt hơn so với những người trị liệu bằng placebo. Gần đây hơn, Sumaya và cs. (2001) đ đã tiến hành một thử nghiệm: các bệnh nhân trầm cảm được đặt vào 3 hoàn cảnh một cách ngẫu nhiên: nhóm thứ nhất được điều trị bằng một “liều” ánh sáng 10.000 luxơ 30 phút mỗi ngày trong 1 tuần; nhóm thứ hai nhận một lượng ánh sáng 300 luxơ không có tác dụng trị liệu (ánh sáng ở đây chỉ là một loại placebo) trong cùng khoảng thời gian đó và nhóm thứ 3 không được trị liệu. Sau thực nghiệm, 50% trong số những người nhận được trị liệu tích cực không lặp lại những triệu chứng trầm cảm nữa. Mức độ trầm cảm không thay đổi đối với 2 nhóm còn lại. Tuy nhiên, có thể phải cân nhắc đến đáp ứng placebo đối với liệu pháp ánh sáng, đôi khi nó tương đương với liệu pháp điều trị tích cực. Wileman và đồng nghiệp năm 2001 đã chia ngẫu nhiên bệnh nhân SAD vào các điều kiện trị liệu tích cực (4 tuần với ánh sáng 10.000 luxơ) và điều trị placebo (4 tuần với ánh sáng 300 luxơ).

Ngay sau điều trị, 30% những người được điều trị tích cực và 33% những người trong nhóm được dùng placebo không còn trầm cảm nữa; 63% trong nhóm thứ nhất và 57% thuộc nhóm còn lại có biểu hiện cải thiện rõ rệt. Tuy thế, liệu pháp ánh sáng vẫn được coi là liệu pháp hàng đầu trong điều trị SAD.

Bài viết cùng chuyên mục

Mô hình gia đình các rối loạn sức khoẻ tâm thần

Dựa trên lí thuyết hệ thống mà người ta đã xây dựng những mô hình gia đình về rối loạn sức khỏe tâm thần và cách trị liệu của các rối loạn đó. Lí thuyết này xem gia đình hoặc những nhóm xã hội khác như là một hệ thống những cá nhân có  liên quan với nhau.

Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.

Trị liệu lo âu

Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.

Giải thích về trị liệu sinh học hành vi dị thường

Những giải thích và trị liệu sinh học các rối loạn tâm thần dựa trên cơ sở rằng hành vi và cảm xúc được điều hành bởi các hệ thống của não. Những hệ thống này cho phép chúng ta tiếp nhận thông tin, tích hợp thông tin với trí nhớ và các yếu tố nổi bật khá.

Trị liệu trầm cảm

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó.

Trị liệu tâm thần phân liệt

Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.

Những quan điểm hiện đại về tính dị thường

Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Những vấn đề chẩn đoán hành vi dị thường

Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.

Các lựa chọn của mô hình y khoa hành vi dị thường

Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường

Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường

Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.

Nguyên nhân những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Có rất nhiều tài liệu khác nhau tập trung vào những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm thần. Những yếu tố này không tác động một cách riêng rẽ mà có sự kết hợp với nhau tạo thành nguy cơ xuất hiện các rối loạn tâm thần ở cá nhân.

Những yếu tố trong phạm vi trị liệu hành vi bất thường

Việc tự bạch diễn ra khi nhà trị liệu kể cho thân chủ những câu chuyện tương ứng với tình huống của thân chủ, như những trải nghiệm tương tự, ý nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cá nhân.

Nguyên nhân của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là trung tâm của cuộc tranh luận khoa học về bản chất và vai trò của dinh dưỡng trong sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần. Có lẽ chiếm ưu thế là mô hình nguyên nhân của tâm thần phân liệt khi cho rằng nó có căn nguyên sinh học.

Bản chất của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là một trong những chẩn đoán tâm thần gây nhiều tranh cãi nhất. Trải qua các thời kỳ, người ta vẫn còn tranh luận rằng  liệu có thật sự tồn tại một trạng thái tâm thần phân liệt, nó là do di truyền hay do môi trường.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt của DSM

Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.

Tiến trình trị liệu hành vi bất thường

Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển phong phú và đa dạng của những phương pháp khác nhau, phỏng vấn lâm sàng vẫn là công cụ chính để tìm hiểu vấn đề của thân chủ. Shea (1998) đưa ra 6 mục tiêu của sự đánh giá ban đầu.

Điều trị tâm thần phân liệt

Hầu hết những người được chẩn đoán tâm thần phân liệt đều đã được dùng một loại thuốc nào đó mặc dù liều lượng có thể được giảm hoặc thậm chí được uống trong thời kì ổn định.

Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường

Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.

Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường

DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức hành vi dị thường

Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.

Bản chất và nguyên nhân trầm cảm

Hệ thống phân loại bệnh DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa một giai đoạn trầm cảm chủ yếu khi có sự xuất hiện của ít nhất 5 trong số các triệu chứng, trong tối thiểu 2 tuần.

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hành vi dị thường

Người bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorder) trải qua cả trầm cảm và những giai đoạn hưng cảm. Theo DSM-IV-TR, cơn hưng cảm bao gồm ít nhất ba trong số các triệu chứng.

Nguyên nhân và trị liệu hành vi tự sát

Tự sát không phải là một rối loạn cảm xúc. Nó không chỉ liên quan duy nhất đến trầm cảm. Song, đây là một vấn đề nghiêm trọng và liên quan rõ rệt đến trầm cảm hơn bất cứ rối loạn sức khỏe tâm thần nào được nhắc đến trong phần này.

Rối loạn stress sau sang chấn

Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.

Rối loạn xác định phân ly

Một đặc tính của những cá nhân được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn xác định phân li (DID - dissociative identity disorder) là rằng họ cư xử như họ có hai hay nhiều hơn những bản thể hoặc nhân cách khác biệt.

Bằng chứng và phục hồi trí nhớ

Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.

Co thắt âm đạo hành vi bất thường

Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi tình dục là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận sinh dục.

Rối loạn xác định giới hành vi dị thường

Để giải thích mong muốn thay đổi dương vật, Ovesey & Person nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác.

Rối loạn chức năng tình dục

Chưa có nhiều những đánh giá về can thiệp nhận thức trong trị liệu rối loạn cương cứng, mặc dù Goldman và Carroll cũng đã thông báo kết quả của một số xemina.

Loạn dục cải trang hành vi dị thường

Lặp đi lặp lại những tưởng tượng kích thích hoặc đòi hỏi tình dục với cường độ mạnh hoặc các hành vi như mặc quần áo của người khác giới trong khoảng thời gian ít nhất là trên 6 tháng.

Loạn dục đa dạng hành vi bất thường

Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).

Loạn dục với trẻ em

Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.

Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường

Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).

Rối loạn nhân cách ranh giới hành vi dị thường

DSM-IV-TR định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới gồm các mối quan hệ liên cá nhân, hình ảnh bản thân, tình cảm không ổn định và có xung động rõ rệt. Nó khởi phát từ đầu thời thơ ấu và bao gồm 5 trong số những triệu chứng.

Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường

Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.

Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường

Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.

Khó học với hành vi dị thường

Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.

Tự kỷ với hành vi dị thường

Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.

Rối loạn tăng động giảm chú ý

Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.

Xơ vữa rải rác tâm lý dị thường

Tiến trình MS rất khác nhau ở các cá nhân. ít có trường hợp khởi phát trước 15 tuổi; 20% số trường hợp bị MS có dạng khởi đầu giống như một bệnh trong đó các triệu chứng hầu như không tiến triển sau khi xuất hiện.

Chấn thương sọ não tâm lý dị thường

Chấn thương sọ não kín xuất hiện khi đầu bị va chạm mạnh nhưng không có tổn thương hộp sọ hoặc vết thương não đặc biệt. Dạng chấn thương như vậy thường gây ra sự chấn động toàn bộ não trong hộp sọ và tổn thương lan toả.

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường

Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998).

Rối loạn thần kinh tâm lý dị thường

Trong chấn thương sọ não, các quá trình nhận thức cũng có thể bị tổn thiệt đáng kể, tuy nhiên sau đó nó có thể được hồi phục một phần

Đánh bạc bệnh lí tâm lý dị thường

Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy.

Sử dụng heroin tâm lý dị thường

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.

Lạm dụng rượu tâm lý dị thường

Rượu là một chất gây nghiện hợp pháp. Uống đến mức độ vừa phải, một vài loại rượu như rượu vang đỏ, có thể có lợi cho sức khỏe. Nhưng việc sử dụng rượu quá mức lại là có hại.