Đánh bạc bệnh lí tâm lý dị thường

2013-08-07 01:31 PM

Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hầu hết chúng ta đều tham gia trò đánh bạc may rủi vài lần. Tuy nhiên, với một vài người, đánh bạc trở nên một món nghiện và nó cũng gây nghiện như ma túy vậy. Mặc dù nó được xác định là một rối loạn xung năng trong DSM-IV-TR (APA 2000), đánh bạc bệnh lí được xem cùng thuật ngữ về hành vi như nghiện. Để chẩn đoán đánh bạc bệnh lí, ít nhất phải có 5 trong số các tiêu chuẩn dưới đây:

Mối bận tâm với đánh bạc.

Nhu cầu chơi đánh bạc với số tiền mỗi lúc một tăng để đạt được niềm vui thú mong muốn.

Luôn thất bại khi tìm cách kiểm soát hoặc ngưng không chơi nữa.

Sử dụng trò đánh bạc như một cách trốn chạy những vấn đề hoặc làm dịu đi những trạng thái tâm lí khó chịu.

Trở lại với đánh bạc sau mất mát trong hy vọng của "sự được mất".

Nói dối với các thành viên trong gia đình hoặc những người khác để giấu giếm chuyện đánh bạc.

 Có hành vi phạm pháp như gian trá, lừa lọc, trộm cắp để có thể tiếp tục chơi bạc.

Gây nguy hại hoặc đánh mất các mối quan hệ ý nghĩa.

Đánh bạc bệnh lí thường là điểm kết của sự thay đổi dần dần từ việc chơi cho vui, trong các mối quan hệ xã giao bạn bè, đến việc chơi thường xuyên hơn, sau đó thích thú, say sưa và cuối cùng là đánh bạc bệnh lí. Mỗi "bước" đòi hỏi sự đầu tư nhiều hơn về tâm trí cũng như tiền bạc cho đánh bạc đồng thời cũng làm tăng những vấn đề có liên quan. Một cuộc khảo sát được tiến hành bởi hội   GamCare (Anh) cho thấy 0,8% những người chơi đánh bạc người Anh có thể được xếp vào loại "chơi bạc có vấn đề": ít hơn Mỹ (1,1%), úc (2,3%) và Tây Ban Nha (1,4%).

Đánh bạc bệnh lí có thể kéo theo nguy hại hoặc mất đi một mối quan hệ ý nghĩa hoặc mất công việc. Khi họ không thể tăng số tiền đánh bạc thêm nữa, họ có thể lao đầu vào các hoạt động phạm pháp để xoay tiền: ước tính 60% những người nghiền đánh bạc bệnh lí có các hành vi phạm pháp để tiếp tục chơi bạc (Blaszczynski 1995). Điều này có thể có mối liên hệ với các rối loạn nhân cách như nhân cách chống đối xã hội, ái kỷ hoặc các rối loạn nhân cách ranh giới. Thêm nữa, có tới 30% những người nghiện đánh bạc bệnh lí có thể kèm với các vấn đề liên quan đến rượu. Mối quan hệ với rượu là quan trọng, vì uống rượu cùng với đánh bạc như là một chỉ báo nhân cách nghiện ngập. Khoảng 20% những người tham gia trị liệu đánh bạc bệnh lí có ý định tự sát (APA 1994).

Nguyên nhân đánh bạc bệnh lí

Yếu tố di truyền

Một vài nghiên cứu (ví dụ, Eisen và cs. 1998-99) tiến hành trên một số lượng lớn các cặp sinh đôi đã cho rằng tính dễ nhiễm chứng đánh bạc bệnh lí (nhiều người cho rằng do yếu tố di truyền) chiếm tỉ trọng khoảng 35% đến 54%. Một quá trình di truyền tiềm tàng là qua gen thụ thể dopamine D2 (Comings và cs. 1996). Một biến thể của gen thụ thể dopamine D2 là D2A1 được tìm thấy ở những người có chứng đánh bạc bệnh lí nhiều hơn so với nhóm người bình thường (Potenza 2001: xem mối quan hệ của nó với phụ thuộc rượu và ma túy).

Yếu tố sinh học

Một trong những yếu tố được xem như có liên quan tới đánh bạc là cái “thú” của thắng bạc hoặc gần thắng bạc, nó cũng tương đương với việc đạt được cái thú đó trong nghiện ma túy. Nhiều chất DTTK dường như gián tiếp cho câu trả lời này. Nồng độ dopamine tăng lên sau khi cá nhân thắng bạc (Shinohara và cs. 1999).  Nồng độ norepinephrine cũng được thấy trong những pha đánh bạc. Những điều này có thể ảnh hưởng đến sự vận hành cả trong não bộ và trong hệ thống thần kinh giao cảm. Trong những người chơi bạc cho vui, những quá trình hóa thần kinh thông thường diễn ra trong khi đang chơi bạc. ở những người nghiện bạc bệnh lí, những quá trình này xảy ra trước khi chơi bạc hoặc khi một đáp ứng có điệu kiện tương ứng với những kích thích liên quan đến đánh bạc (Sharpe và cs. 1995). Như vậy có những bằng chứng cho thấy nồng độ endophin có thể tăng trong khi chơi đánh bạc, mặc dù vẫn cần nhiều bằng chứng hơn để chứng minh cho điều này (Shinohara và cs. 1999).

Yếu tố văn hóa - xã hội

Nói chung, những cơ hội cho việc chơi đánh bạc cho vui cũng như dẫn đến bệnh lí là đều rất cao. Ví dụ, Ladouceur và cs. (1999) thấy rằng khả năng được (phép) chơi bạc ở nhiều nước khác nhau ngày càng tăng lên theo thời gian và tỉ lệ người chơi bạc bệnh lí cũng tăng lên. ở úc, Uỷ ban năng xuất (Productivity Commission) (1999) đã đánh giá tình hình đánh bạc ở nhiều bang khác nhau và thấy có sự khác biệt nhỏ trong những mức độ phí tổn liên quan đến đánh bạc và việc quá mê chơi đánh bạc như một hậu quả của những khác biệt đáng kể. Một ngoại trừ là chơi với máy. Trong trường hợp này,cơ hội chơi càng cao thì tỉ tệ những vấn đề liên quan đến đánh bạc cũng càng cao. Những dữ liệu này dẫn Uỷ ban đến nhận định rằng nếu cơ hội đánh bạc với máy ở những bang bị hạn chế, được tự do như những bang khác thì những người chơi có vấn đề ở những bang này có thể tăng lên đến 110%. ở anh, mặc dù có một vài lo lắng, việc đưa ra xổ số quốc gia vào năm 1994 không làm tăng thêm các vấn đề liên quan đến đánh bạc. Một cuộc khảo sát năm 1998 của GamCare cho thấy 65% dân số Anh đã chơi xổ số trong năm trước đó, và cũng trong thời gian đó gần 90% người lớn ở Thụy Điển và Niu Dilân đã chơi xổ số.

Yếu tố tâm lí

Xung năng:

Những cấp độ cao của xung năng trong thời thơ ấu, mà rõ ràng nhất là rối loạn tăng động giảm chú ý - ADHD (xem chương 13), có thể là một yếu tố nguy cơ cho chứng đánh bạc bệnh lí. Carlton và Manowicz (1994) đã chỉ ra rằng những người lớn nghiện đánh bạc bệnh lí có tỉ lệ mắc ADHD khi còn nhỏ cao hơn so với trẻ em bình thường. Những nghiên cứu lâu dài về sau đã ủng hộ bằng chứng trước đó này. Vitaro và cs. (1999) đã kiểm tra độ

mạnh dự báo của 4 thước đo của xung năng trong độ tuổi 13-14: sự phân loại của giáo viên, tự báo cáo; kết quả chơi bài và "kìm chế làm việc thích thú". Sau đó, năm 17 tuổi, nhóm đối khách thể được khảo sát về đánh bạc. Trong số các yếu tố đã được khảo sát, 2 yếu tố mang tính dự báo cao là ngồi/chơi dai trang đánh bài và không có khả năng trì hoãn làm việc thích thú. Những phát hiện này được xem như chỉ báo của xu hướng phản ứng quá mức với những kết quả tích cực (thắng bạc), của xu hướng yêu cầu sự củng cố tức thì và không cảm  nhận được những hậu quả tiêu cực: những đặc trưng của người nghiền đánh bạc bệnh lí. Sharpe (2002) cho rằng chưa thể khẳng định được đây là do nguyên nhân sinh học hay do những yếu tố môi trường.

Lịch sử học tập:

Cũng như với các chứng nghiện khác, điều kiện hóa quan sát được và điều kiện hóa kinh điển cũng cũng đã được dùng để giải thích hành vi đánh bạc. Những mô hình đánh bạc lúc ban đầu cho rằng đánh bạc về bản chất được duy trì bởi sự củng cố không liên tục - thuộc cả về sinh học và kinh tế - vốn có trong đánh bạc. Việc thua bạc sẽ được duy trì liên tục trong hi vọng sẽ gặp vận may trong những lần sau. Những kế hoạch củng cố đa dạng và gián đoạn dẫn đến sự tập nhiễm nhanh chóng về hành vi và giúp nó chống lại sự dập tắt. Sharpe (2002) đã cho rằng trong khi những điều này chắc chắn góp phần vào việc đánh bạc thông thường, ở đó việc thua đáng kể và liên tục không dẫn đến việc chấm dứt chơi bài. Sharpe (2002) cũng cho rằng một khoản lương hậu hĩnh và đặc biệt là sớm "quả đậm" trong sự nghiệp đánh bạc sẽ thiết lập và duy trì một thói chơi bài bệnh lí. Những điều này có lẽ bóp méo những hi vọng về kết quả của đánh bạc và củng cố cho những mất mát bằng việc mong chờ vào những cú thắng đậm trong tương lai.

Quá trình nhận thức:

Những quá trình nhận thức khác nhau đã kích động và duy trì việc đánh bạc. Thái độ ủng hộ thói đánh bạc hướng đến việc tham gia vào các hoạt động chơi bài nhưng lại không duy trì hoạt động đó (Sharpe 2002). Những dạng khác của tự nói chuyện nhận thức (cognitive self-talk) có thể lại giữ vị trí quan trọng trong thời gian này. Delffabro và Winefield (1999) đã phát hiện ra rằng 75% nhận thức liên quan đến các trò chơi trong thời gian đánh bạc là vô lí về bản chất và là yếu tố ủng hộ cho việc tiếp tục chơi bài. Những suy nghĩ như thế có thể kích thích xung năng, sự mất mát và thậm chí làm cho cá nhân tin vào số mệnh. Kiểu hình tự nói chuyện này cũng có thể kích thích duy trì chơi: nhiều nghiên cứu (ví dụ, Sharpe và cs. 1995) đã thấy được mối quan hệ giữa tần xuất của những phát biểu bằng lời nói vô lí và mức độ kích thích.

Cảm xúc tiêu cực:

Tâm trạng kém vui hoặc lo âu cũng là một trong những nguyên nhân đánh bạc ở một số người đánh bạc bệnh lí. Dickerson và cs. (1996) thông báo rằng 9% trong mẫu nghiên cứu những người đánh bạc thường xuyên, đánh bạc để trốn khỏi cảm giác trầm buồn; 30% lại chơi bài sau một "ngày hụt hẫng". Cảm giác khó chịu có thể dẫn đến việc đánh bạc thường xuyên sau những mất mát. Để giải thích cho hiện tượng này, Dickerson và Baron (2000) cho rằng tâm trạng trầm buồn có thể giảm nhận thức về khả năng kiểm soát trò đánh bạc và vì thế giảm cố gắng bớt chơi bài ngay cả khi thua.

Mô hình tâm sinh xã hội của đánh bạc

Những phát hiện đa dạng này góp phần vào mô hình tâm - sinh - xã hội của đánh bạc của Sharpe (2002). Sharpe đã cho rằng điều này có thể bao gồm 3 yếu tố nguy cơ:

Tính có thể bị tổn thương về mặt sinh học bao gồm những hệ thống dopaminergic và serotinergic.

Thái độ của gia đình ủng hộ việc chơi bài.

Mức độ cao của xung năng.

Những yếu tố này có thể làm cho những người tương đối trẻ nhưng đã có nhiều kinh nghiệm đánh bạc. Trong những trường hợp này, cá nhân được xã hội hóa vào văn hóa đánh bạc. Thắng sớm cũng có thể củng cố việc chơi bài và bóp méo niềm tin cũng như thái độ về việc đó. Người chơi sẽ dành chú ý cho những trận thắng nhiều hơn thua. Cùng thời gian đó, về mặt sinh học, các nhân có thể được kích thích và cảm thấy dễ chịu khi chơi. Tất cả những yếu tố này đều nhằm duy trì hứng thú. Khi sự nghiệp chơi bạc phát triển, từng pha một có thể được khởi động bằng hi vọng tránh stress, giảm đi nỗi buồn hoặc cải thiện tâm trạng. Đánh bạc được dùng nhằm tăng kích thích và là một phương tiện chạy trốn thực tại. Một khi đã chơi, những định kiến trong nhận thức và kích thích đã được trải nghiệm sẽ duy trì hành vi đánh bạc dù thắng hay thua.

Trị liệu chứng đánh bạc bệnh lí

Có rất ít những đánh giá bằng thực nghiệm về việc trị liệu chứng đánh bạc bệnh lí, mặc dù rõ ràng là những phương pháp điều trị cũng có tác dụng khích lệ động viên. Những chương trình tự giúp mình, dạng như chương trình 12 bước của Hội những người không chơi bạc đã đạt được tỉ lệ thôi chơi hoàn toàn là 8% trong 1 năm và 7% trong 2 năm (Steward và Brown 1988). Những can thiệp chính thức hơn cũng thành công trong việc duy trì thôi chơi bài trong vòng 1 năm của tới 55% những người tham gia trị liệu.

Tiếp cận hành vi

Một trong những nghiên cứu trị liệu sớm nhất (McConaghy và cs. 1983) đã so sánh hiệu quả của trị liệu gây phản cảm và giải mẫn cảm tưởng tượng. Trị liệu gây phản cảm yêu cầu những người tham gia đọc to những từ trong những thẻ đã được chuẩn bị trước, một vài từ liên quan đến hoạt động đánh bạc, một số khác mô tả những hoạt động khác như "đi thẳng về nhà". Mỗi khi họ đọc to một câu có liên quan đến đánh bạc, họ sẽ bị một sốc điện nhẹ khoảng 2 giây - được tả như "không dễ chịu nhưng không gây cảm giác trầm buồn" (McConaghy và cs. 1983:367). Giải mẫn cảm tưởng tượng yêu cầu những người tham gia cùng lúc hình dung ra thật nhiều cảnh tượng khác nhau liên quan đến đánh bạc khi đang sử dụng biện pháp thư giãn để giảm sức hấp dẫn của trò đánh bạc. Cách tiếp cận giải mẫn cảm này chứng tỏ hiệu quả cao nhất trong việc kiềm chế ham muốn mạnh mẽ và kiểm soát việc chơi đánh bạc trong một năm theo dõi sau trị liệu. Theo dõi trong một thời gian dài, từ 2 đến 9 năm sau khi kết thúc trị liệu, cho thấy 79% những người đã tham gia chương trình trị liệu giải mẫn cảm đã kiểm soát được, thậm chí ngừng chơi bài. Chỉ có 50% ở nhóm trị liệu gây phản cảm có được kết quả như thế (McConaghy và cs. 1991).

Tiếp cận hành vi nhận thức

Một số nghiên cứu cho thấy kết quả tích cực của trị liệu hành vi nhận thức. Ladouceur và cs. (2001) đã phân chia một cách ngẫu nhiên những người nghiện đánh bạc bệnh lí vào nhóm trị liệu nhận thức hoặc nhóm đối chứng trong danh sách chờ. Can thiệp nhận thức bao gồm 2 thành tố. Thứ nhất là điều chỉnh nhận thức, ở đó nhận thức về tính ngẫu nhiên của cá nhân  đựơc đưa ra phân tích. Điều này bao gồm cả yếu tố giáo dục về bản chất của sự ngẫu nhiên và chỉ ra những nhận thức sai lầm khi đánh bạc. Điều này có thể đạt được bằng cách ghi băng lời nói ("... nếu tôi thua 4 lần trong một hàng, tôi chắc chắn sẽ thắng ở lần tiếp theo...") diễn ra trong lúc người tham gia đang tưởng tượng ra cuộc đánh bạc, tiếp sau đó nhà trị liệu sẽ cố gắng "chỉnh sửa" những nhận thức sai lầm đó trong thời gian trị liệu. Thành tố thứ hai bao gồm việc rèn luyện ngăn ngừa đánh bạc trở lại. ở đó, những người tham gia xác định những tình huống nguy cơ cao và lên kế hoạch làm sao để đương đầu với những tình huống đó. Can thiệp này rất thành công: trong số 54% những người tham gia, ít nhất cũng có tới 50% giảm tần xuất chơi bài, nhận thức và kiểm soát được hành vi đánh bạc, so với 7% những người ở nhóm đối chứng. Thêm nữa, 85% những người tham gia chương trình điều trị so với chỉ có 14% thuộc nhóm đối chứng đạt được 50% sự tiến bộ trên ít nhất ở 3 trong tổng số 4 phép đo. Những tiến bộ này nói chung được duy trì trong 6 đến 12 tháng theo dõi sau trị liệu.

Trị liệu dược lí

Mới chỉ có một số đánh giá về trị liệu bằng thuốc trong điều trị chứng đánh bạc bệnh lí. Một trong số đó là của Hollander và cs. (2000). Các tác giả đã đánh giá hiệu quả của fluvoxamine, một SSRI, trong một nghiên cứu qui mô nhỏ bao gồm 15 người. Họ đều được điều trị lần đầu bằng placebo trước khi tham gia vào khóa trị liệu 8 tuần. Chỉ có 10 người hoàn thành nghiên cứu, nhưng thuốc đã cho thấy tác dụng làm giảm đáng kể hành vi và ham muốn đánh bạc so với điều trị bằng placebo trước đó. Rõ ràng là chúng ta cần có nhiều thử nghiệm hơn trước khi có bất kỳ một kết luận chắc chắn nào về hiệu quả của điều trị bằng thuốc.

Bài viết cùng chuyên mục

Mô hình gia đình các rối loạn sức khoẻ tâm thần

Dựa trên lí thuyết hệ thống mà người ta đã xây dựng những mô hình gia đình về rối loạn sức khỏe tâm thần và cách trị liệu của các rối loạn đó. Lí thuyết này xem gia đình hoặc những nhóm xã hội khác như là một hệ thống những cá nhân có  liên quan với nhau.

Dự phòng những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1996), tăng cường sức khoẻ bao gồm rất nhiều sự can thiệp đa dạng phức tạp ở những mức độ khác nhau không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bệnh tật mà còn khuyến khích, thúc đẩy sức khoẻ tích cực.

Trị liệu lo âu

Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm, vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là thuốc hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.

Giải thích về trị liệu sinh học hành vi dị thường

Những giải thích và trị liệu sinh học các rối loạn tâm thần dựa trên cơ sở rằng hành vi và cảm xúc được điều hành bởi các hệ thống của não. Những hệ thống này cho phép chúng ta tiếp nhận thông tin, tích hợp thông tin với trí nhớ và các yếu tố nổi bật khá.

Trị liệu trầm cảm

Những thuốc chống trầm cảm mạnh nhất được phát triển đó chính là  những chất ức chế monoamine oxidaze (MAOIs). Các thuốc này ngăn ngừa monoamine oxidaze phân huỷ norepinephrine ở trong khe xi nap và giúp duy trì tác dụng của nó.

Trị liệu tâm thần phân liệt

Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.

Những quan điểm hiện đại về tính dị thường

Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Những vấn đề chẩn đoán hành vi dị thường

Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.

Các lựa chọn của mô hình y khoa hành vi dị thường

Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường

Trị liệu tâm lí hoặc trị liệu dược lí hành vi dị thường

Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.

Nguyên nhân những vấn đề sức khoẻ tâm thần

Có rất nhiều tài liệu khác nhau tập trung vào những yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe tâm thần. Những yếu tố này không tác động một cách riêng rẽ mà có sự kết hợp với nhau tạo thành nguy cơ xuất hiện các rối loạn tâm thần ở cá nhân.

Những yếu tố trong phạm vi trị liệu hành vi bất thường

Việc tự bạch diễn ra khi nhà trị liệu kể cho thân chủ những câu chuyện tương ứng với tình huống của thân chủ, như những trải nghiệm tương tự, ý nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cá nhân.

Nguyên nhân của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là trung tâm của cuộc tranh luận khoa học về bản chất và vai trò của dinh dưỡng trong sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần. Có lẽ chiếm ưu thế là mô hình nguyên nhân của tâm thần phân liệt khi cho rằng nó có căn nguyên sinh học.

Bản chất của tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt là một trong những chẩn đoán tâm thần gây nhiều tranh cãi nhất. Trải qua các thời kỳ, người ta vẫn còn tranh luận rằng  liệu có thật sự tồn tại một trạng thái tâm thần phân liệt, nó là do di truyền hay do môi trường.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt của DSM

Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.

Tiến trình trị liệu hành vi bất thường

Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển phong phú và đa dạng của những phương pháp khác nhau, phỏng vấn lâm sàng vẫn là công cụ chính để tìm hiểu vấn đề của thân chủ. Shea (1998) đưa ra 6 mục tiêu của sự đánh giá ban đầu.

Điều trị tâm thần phân liệt

Hầu hết những người được chẩn đoán tâm thần phân liệt đều đã được dùng một loại thuốc nào đó mặc dù liều lượng có thể được giảm hoặc thậm chí được uống trong thời kì ổn định.

Rối loạn hoảng sợ hành vi dị thường

Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.

Rối loạn lo âu lan toả hành vi dị thường

DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa rối loạn lo âu lan toả (GAD - Generalized anxiety disorder) là sự lo âu hay phiền muộn quá mức và kéo dài liên tục, xuất hiện ngày càng nhiều trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức hành vi dị thường

Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.

Bản chất và nguyên nhân trầm cảm

Hệ thống phân loại bệnh DSM-IV-TR (APA 2000) định nghĩa một giai đoạn trầm cảm chủ yếu khi có sự xuất hiện của ít nhất 5 trong số các triệu chứng, trong tối thiểu 2 tuần.

Rối loạn cảm xúc theo mùa hành vi dị thường

Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hành vi dị thường

Người bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực (bipolar disorder) trải qua cả trầm cảm và những giai đoạn hưng cảm. Theo DSM-IV-TR, cơn hưng cảm bao gồm ít nhất ba trong số các triệu chứng.

Nguyên nhân và trị liệu hành vi tự sát

Tự sát không phải là một rối loạn cảm xúc. Nó không chỉ liên quan duy nhất đến trầm cảm. Song, đây là một vấn đề nghiêm trọng và liên quan rõ rệt đến trầm cảm hơn bất cứ rối loạn sức khỏe tâm thần nào được nhắc đến trong phần này.

Rối loạn stress sau sang chấn

Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.

Rối loạn xác định phân ly

Một đặc tính của những cá nhân được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn xác định phân li (DID - dissociative identity disorder) là rằng họ cư xử như họ có hai hay nhiều hơn những bản thể hoặc nhân cách khác biệt.

Bằng chứng và phục hồi trí nhớ

Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.

Co thắt âm đạo hành vi bất thường

Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi tình dục là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận sinh dục.

Rối loạn xác định giới hành vi dị thường

Để giải thích mong muốn thay đổi dương vật, Ovesey & Person nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác.

Rối loạn chức năng tình dục

Chưa có nhiều những đánh giá về can thiệp nhận thức trong trị liệu rối loạn cương cứng, mặc dù Goldman và Carroll cũng đã thông báo kết quả của một số xemina.

Loạn dục cải trang hành vi dị thường

Lặp đi lặp lại những tưởng tượng kích thích hoặc đòi hỏi tình dục với cường độ mạnh hoặc các hành vi như mặc quần áo của người khác giới trong khoảng thời gian ít nhất là trên 6 tháng.

Loạn dục đa dạng hành vi bất thường

Không dễ dàng gì phân biệt đâu là hoạt động tình dục “bình thường” và đâu là “không bình thường”. Tuy vậy cũng có những hành vi tình dục dễ dàng xếp vào “không bình thường”. ở đây muốn đề cập đến loạn dục đa dạng (paraphilias).

Loạn dục với trẻ em

Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.

Các rối loạn nhân cách hành vi dị thường

Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).

Rối loạn nhân cách ranh giới hành vi dị thường

DSM-IV-TR định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới gồm các mối quan hệ liên cá nhân, hình ảnh bản thân, tình cảm không ổn định và có xung động rõ rệt. Nó khởi phát từ đầu thời thơ ấu và bao gồm 5 trong số những triệu chứng.

Nhân cách chống đối xã hội hành vi dị thường

Thuật ngữ nhân cách chống đối xã hội và nhân cách bệnh thường được sử dụng thay thế nhau. Thực tế, hạng mục DSM-IV-TR dành cho nhân cách chống đối xã hội đã kết hợp chẩn đoán rối loạn này với nhân cách bệnh, đây là điểm khác biệt so với DSM III.

Chán ăn và cuồng ăn tâm lí hành vi dị thường

Chán ăn tâm lí bao gồm những thái độ, ý định làm cho bản thân càng gầy càng tốt. Thực vậy, nói một cách ngắn gọn lại về chán ăn là sự giảm cân một cách đáng kể.

Khó học với hành vi dị thường

Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.

Tự kỷ với hành vi dị thường

Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.

Rối loạn tăng động giảm chú ý

Rất nhiều trẻ em có một số đặc điểm của ADHD. Ranh giới không rõ ràng giữa hành vi “bình thường” và “bệnh lí” và tiềm ẩn sự lạm dụng chẩn đoán ADHD để bắt những đứa trẻ quậy phá phải điều trị.

Xơ vữa rải rác tâm lý dị thường

Tiến trình MS rất khác nhau ở các cá nhân. ít có trường hợp khởi phát trước 15 tuổi; 20% số trường hợp bị MS có dạng khởi đầu giống như một bệnh trong đó các triệu chứng hầu như không tiến triển sau khi xuất hiện.

Chấn thương sọ não tâm lý dị thường

Chấn thương sọ não kín xuất hiện khi đầu bị va chạm mạnh nhưng không có tổn thương hộp sọ hoặc vết thương não đặc biệt. Dạng chấn thương như vậy thường gây ra sự chấn động toàn bộ não trong hộp sọ và tổn thương lan toả.

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường

Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998).

Rối loạn thần kinh tâm lý dị thường

Trong chấn thương sọ não, các quá trình nhận thức cũng có thể bị tổn thiệt đáng kể, tuy nhiên sau đó nó có thể được hồi phục một phần

Sử dụng heroin tâm lý dị thường

Các opiate là một nhóm các loại chất gây nghiện chiết xuất từ cây thuốc phiện. Những chiết xuất chủ yếu, theo thứ tự về khả năng gây nghiện là thuốc phiện, moocphin và heroin.

Lạm dụng rượu tâm lý dị thường

Rượu là một chất gây nghiện hợp pháp. Uống đến mức độ vừa phải, một vài loại rượu như rượu vang đỏ, có thể có lợi cho sức khỏe. Nhưng việc sử dụng rượu quá mức lại là có hại.