- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Sự phát triển của buồng trứng
Sự phát triển của buồng trứng
Khi buồng trứng phóng noãn (rụng trứng) và nếu sau đó trứng được thụ tinh, bước phân bào cuối cùng sẽ xảy ra. Một nửa số các nhiễm sắc thể chị em vẫn ở lại trong trứng thụ tinh và nửa còn lại được chuyển vào thể cực thứ hai, sau đó tiêu biến.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những cơ quan chính của hệ sinh dục phụ nữ, trong số đó quan trọng nhất là hai buồng trứng, vòi trứng, tử cung và âm đạo. Sự sinh sản bắt đầu với sự phát triển của trứng ở buồng trứng.
Vào khoảng giữa mỗi chu kì kinh nguyệt, duy nhất một nang trứng được tách ra khỏi buồng trứng và đi vào khoang ổ bụng gần với các tua vòi của vòi trứng hai bên. Nang trứng này sau đó chui vào một trong hai vòi trứng và đi vào tử cung; nếu nó được thụ tinh bởi một tinh trùng, nó sẽ làm tổ ở tử cung, nơi nang trứng được thụ tinh phát triển thành một bào thai, một bánh rau, một màng ối - và cuối cùng trở thành một em bé.
Hình. Cơ quan sinh sản nữ
Hình. Cấu trúc bên trong tử cung, buồng trứng và ống tử cung
Trứng đang phát triển (oocyte) cũng giống như trứng trưởng thành (ovum) đều trải qua những giai đoạn của Sự tạo trứng (oogenesis). Trong giai đoạn phát triển sớm của phôi thai, tế bào mầm nguyên thủy từ nội bì lưng của túi noãn hoàng di chuyển dọc theo mạc treo ruột sau lên lớp bề mặt của buồng trứng, vị trí dó được phủ một lớp biểu mô mầm, hình thành phôi từ lớp biểu mô mầm của mào sinh dục. Trong suốt giai đoạn di cư, những tế bào mầm phân chia nhiều lần. Một khi những tế bào mầm nguyên thủy di chuyển đến lớp biểu mô mầm, chúng bắt đầu di chuyển đến vùng vỏ và trở thành nang trứng nguyên thủy (primodial ova).
Hình. Sự hình thành và phát triển nang trứng
Mỗi nang trứng nguyên thủy phủ xung quanh nó bởi một lớp tế bào mỏng từ mô đệm của buồng trứng (ovarian stroma) và khiến chúng có tính chất của biểu mô; những tế bào dạng biểu mô này được gọi là gNhững tế bào hạt. Nang trứng được bao quanh bởi một lớp tế bào hạt gọi là nang nguyên thủy.
Trong giai đoạn này nang trứng vẫn chưa phát triển hoàn chỉnh và được gọi là nang sơ cấp (primary oocyte), cần thêm hai lần phân bào nữa mới co thể thụ tinh với tinh trùng.
Noãn nguyên bào (oogonia) ở buồng trứng trong thời kì phôi thai đã hoàn thành việc phân chia và bước đầu tiên của quá trình giảm phân bắt đầu vào tháng thứ 5. Tế bào mầm nguyên phân sau đó dừng hẳn và không có thêm noãn bào nào được tạo thành. Lúc sinh ra mỗi buồng trứng chứa khoảng 1-2 triệu nang noãn nguyên thủy (primary oocytes).
Nang noãn nguyên thủy phân chia lần đầu tiên sau tuổi dậy thì, Mỗi noãn bào phân chia thành hai tế bào, một nang trứng lớn (nang thứ cấp) và một thể cực thứ nhất. Mỗi một tế bào co chứa 23 nhiễm sắc thể nhân đôi. Thể cực thứ nhất có thể hoặc không trải qua phân bào giảm nhiễm thứ hai và sau đó tiêu biến. Trứng trải qua lần phân bào giảm nhiễm thứ hai, và sau khi nhiễm sắc tử chị em tách ra, sự giảm phân tạm thời dừng lại. Nếu trứng được thụ tinh, bước cuối cùng trong giảm phân xảy ra và các nhiễm sắc tử chị em trong trứng đi đến các tế bào riêng biệt.
Khi buồng trứng phóng noãn (rụng trứng) và nếu sau đó trứng được thụ tinh, bước phân bào cuối cùng sẽ xảy ra. Một nửa số các nhiễm sắc thể chị em vẫn ở lại trong trứng thụ tinh và nửa còn lại được chuyển vào thể cực thứ hai, sau đó tiêu biến.
Ở tuổi dậy thì, chỉ có khoảng 300.000 trứng còn lại trong buồng trứng, và chỉ có một tỷ lệ phần trăm nhỏ những tế bào trứng này sẽ trưởng thành. Hàng ngàn tế bào trứng không được phát triển sẽ thoái hóa dần và tiêu biến. Trong độ tuổi sinh sản của người phụ nữ, khoảng từ 13 và 46 tuổi, chỉ có 400- 500 nang nguyên thủyphát triển đủ mức để phóng noãn- mỗi tháng một lần, những trứng còn lại bị thoái hóa dần. Vào cuối thời kì sinh sản (mãn kinh), chỉ còn lại một vài nang nguyên thủy ở buồng trứng, và thậm chí những nang này cũng sẽ bị thoái hóa ngay sau đó.
Bài viết cùng chuyên mục
Điện thế hoạt động của tế bào thần kinh
Để tạo ra những tín hiệu thần kinh, điện thế hoạt động di chuyển dọc theo tế bào sợi thần kinh cho tới điểm kếtthúc của nó.
Vòng phản xạ thần kinh: với các tín hiệu đầu ra kích thích và ức chế
Các sợi đầu vào kích thích trực tiếp lên đường ra kích thích, nhưng nó kích thích một nơ-ron ức chế trung gian (nơron 2), là nơ-ron tiết ra một loại chất dẫn truyền thần kinh khác để ức chế đường ra thứ hai từ trạm thần kinh.
Phân ly ô xy hemoglobin thay đổi do BPG và lao động nặng
Trong khi lao động, một số yếu tố chuyển dịch đồ thị phân ly sang phải một cách đáng kể. Do đó cung cấp thêm O2 cho hoạt động, co cơ. Các cơ co sẽ giải phóng một lượng lớn khí CO2.
Sự trưởng thành và thụ tinh của trứng: quyết đinh giới tính thai nhi
Sau khi phóng tinh dịch vào trong âm đạo trong quá trình giao hợp, một số tinh trùng sẽ di chuyển trong vòng 5 đến 10 phút theo hướng đi lên từ âm đạo đến tử và vòi tử cung, đến đoạn bóng của vòi tử cung.
Sinh lý nội tiết tuyến yên
Tuyến yên là một tuyến nhỏ, đường kính khoảng 1 cm, nằm trong hố yên của xương bướm, nặng 0,5g. Tuyến yên liên quan mật thiết với vùng dưới đồi qua đường mạch máu và đường thần kinh, đó là hệ thống cửa dưới đồi - yên.
Khuếch tán khí qua màng hô hấp: các yếu tố ảnh hưởng
Hệ số khuếch tán khí phụ thuộc vào khả năng hòa tan của khí trong màng tế bào, và hệ số này tỷ lệ nghịch với trọng lượng phân tử. Tỷ lệ khuếch tán khí trong màng hô hấp là gần như chính xác tương tự như trong nước.
Đái tháo đường type 2: kháng insulin
Bệnh tiểu đường type 2 là phổ biến hơn so với type 1, chiếm khoảng 90% đến 95% của tất cả các bệnh nhân đái tháo đường. Trong hầu hết các trường hợp, sự khởi đầu của bệnh tiểu đường type 2 xảy ra sau tuổi 30, thường ở độ tuổi từ 50 đến 60.
Receptor: sự thích nghi và chức năng dự báo receptor tốc độ
Sự thích ứng của các loại thụ thể khác nhau cho thấy sự thích nghi nhanh chóng của một số thụ thể và sự thích ứng chậm của những thụ thể khác.
Trao đổi dịch qua màng mao mạch
Áp lực tái hấp thu làm cho khoảng 9/10 lượng dịch đã được lọc ra khỏi đầu mao động mạch được hấp thụ lại ở mao tĩnh mạch. Một phần mười còn lại chảy vào các mạch bạch huyết và trả về tuần hoàn chung.
Tuần hoàn phổi: giải phẫu sinh lý tuần hoàn mạch máu và bạch huyết
Động mạch phổi có thành dày bằng 1/3 của động mạch chủ. Các nhánh động mạch phổi ngắn và tất cả các động mạch phổi, thậm chí nhỏ hơn động mạch nhánh và tiểu động mạch, có đường kính lớn hơn động mạch toàn thân tương ứng.
Androgen của thượng thận
Androgen thượng thận cũng gây tác dụng nhẹ ở nữ, không chỉ trước tuổi dậy thì mà còn trong suốt cuộc đời, phần lớn sự tăng trưởng của lông mu và nách ở nữ là kết quả hoạt động của các hormon này.
Thị lực: chức năng của thị giác
Thị lực người thường có thể phân biệt được 2 điểm các nhau khoảng 25 giây cung. Nghĩa là khi các tia sáng đi từ hai nguồn riêng đi đến mắt tạo một góc giữa chúng tối thiểu là 25 giây, chúng sẽ được xem là hai điểm riêng biệt.
Các yếu tố điều chỉnh lượng thực phẩm ăn vào cơ thể
Sự điều chỉnh lượng thức ăn ăn vào có thể được chia thành điều chỉnh ngắn hạn, nó quan tâm chủ yếu tới việc hạn chế lượng thức ăn trong một bữa, và điều chỉnh dài hạn, kiểm soát chủ yếu là duy trì số lượng bình thường dự trữ năng lượng trong cơ thể.
Truyền suy nghĩ trí nhớ và thông tin khác giữa hai bán cầu đại não: chức năng thể chai và mép trước trong
Hai bán cầu đại não có khả năng độc lập trong ý thức, trí nhớ, giao tiếp và điều khiển chức năng vận động. Thể chai cần thiết cho hai bán cầu trong các hoạt động phối hợp ở mức tiềm thức nông.
Sinh lý điều trị đái tháo đường
Insulin có một số dạng. Insulin "Thường xuyên" có thời gian tác dụng kéo dài 3-8 giờ, trong khi các hình thức khác của insulin được hấp thụ chậm từ chỗ tiêm và do đó có tác dụng kéo dài đến 10 đến 48 giờ.
Dược lý của hệ thần kinh tự chủ
Các thuốc có tác dụng gián tiếp lên hệ giao cảm tại vị trí các cơ quan đích của hệ giao cảm bị kích thích trực tiếp. Bao gồm các thuốc ephedrine, tyramine, và amphetamine.
Vùng vỏ não vận động sơ cấp và nhân đỏ: sự hoạt hóa những vùng chi phối vận động ở tủy sống
Những neuron của nhân đỏ có cùng các đặc tính động và tĩnh, ngoại trừ việc ở nhân đỏ tỉ lệ các neuron động nhiều hơn các neuron tĩnh, trong khi ở vùng vận động sơ cấp thì ngược lại.
Tế bào ung thư ở cơ thể người
Xét rằng hàng nghìn tỷ tế bào mới được hình thành mỗi năm ở người, một câu hỏi hay hơn có thể được hỏi tại sao tất cả chúng ta không phát triển hàng triệu hay hàng tỷ tế bào đột biến ung thư.
Các con đường thần kinh để sợi cảm giác đi tới vỏ não vận động
Khi tiếp nhận các thông tin cảm giác, vỏ não vận động hoạt động cùng với nhân nền và tiểu não kích hoạt một chuỗi đáp ứng vận động phù hợp. Các con đường quan trọng để các sợi cảm giác tới vỏ não vận động.
Hệ thống cột tủy sau: giải phẫu dải cảm giác giữa
Các sợi thần kinh đi vào cột tủy sau tiếp tục không bị gián đoạn đi lên hành tủy sau, là nơi chúng tạo synap trong nhân cột sau. Từ đây, các nơ-ron cấp hai bắt chéo ngay sang bên đối diện của thân não và tiếp tục đi lên qua dải cảm giác giữa đến đồi thị.
Bài tiết chất nhầy và gastrin ở tuyến môn vị
Tế bào bài tiết một lượng nhỏ pepsinogen, như đã nói ở trên, và đặc biệt là bài tiết một lượng lớn lớp chất nhày mỏng để giúp bôi trơn thức ăn khi di chuyển, cũng như bảo vệ thành của dạ dày khỏi sự phân hủy của các enzyme.
Chuyển hóa ô xy và chất dinh dưỡng của não
Phần lớn sự chuyển hóa của não xảy ra ở các neuron mà không phải ở các tế bào thần kinh đệm. Nhu cầu chuyển hóa chính của các neuron là để bơm các ion qua màng, chủ yếu là vận chuyển natri, canxi và kali.
Sự phát triển chưa hoàn thiện của trẻ sinh non
Hầu như tất cả hệ thống cơ quan là chưa hoàn thiện ở trẻ sinh non và cần phải chăm sóc đặc biệt nếu như đứa trẻ sinh non được cứu sống.
Điều hòa bài tiết hormone chống bài niệu (ADH)
Khi dịch ngoại bào trở nên quá ưu trương, do áp suất thẩm thấu nên dịch sẽ đi ra ngoài các tế bào receptor thẩm thấu, làm giảm kích thước tế bào và phát ra các tín hiệu lên vùng dưới đồi để tăng bài tiết ADH.
Sự co bóp cơ học của cơ vân
Các sợi cơ ở mỗi đơn vị vận động không tụ lại tất cả trong cơ mà chồng lên các đơn vị vận động khác trong các vi bó của 3 đến 15 sợi.