Phối hợp các chức năng của cơ thể qua chất dẫn truyền hóa học

2022-09-28 01:30 PM

Hormone được vận chuyển trong hệ tuần hoàn đến các tế bào đích trong cơ thể, gồm cả tế bào trong hệ thần kinh, tại nơi chúng gắn vào các receptor và tạo ra sự phản hồi của tế bào.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Toàn bộ những hoạt động của các tế bào, mô và cơ quan trong cơ thể được phối hợp nhịp nhàng thông qua sự tác động của các dạng khác nhau của hệ thống chất truyền tin hóa học:

1. Tín hiệu thần kinh xuất phát từ sợi trục của các neuron đi vào các khe synap và kích thích tại chỗ để điều khiển các chức năng của tế bào.

2. Các hormone thể dịch được bài tiết từ các tuyến nội tiết hoặc từ những tế bào đặc biệt đi vào vòng tuần hoàn và gây ảnh hưởng lên các tế bào đích tại những vị trí khác nhau trên cơ thể.

3. Các hormone thần kinh được bài tiết từ neuron vào vòng tuần hoàn và gây ảnh hưởng lên các tế bào đích tại những vị trí khác nhau trên cơ thể.

4. Các hóa chất trung gian được bài tiết bởi các tế bào vào khoang dịch ngoại bào và gây ảnh hưởng lên nhiều loại tế bào đích xung quanh.

5. Các chất tự tiết được bài tiết bởi các tế bào vào khoang dịch ngoại bào và gây ảnh hưởng lên chính những tế bào đã bài tiết ra chúng.

6. Các cytokine là những peptid được bài tiết từ các tế bào vào khoang dịch ngoại bào và có thể hoạt động như các chất tự tiết, các hóa chất trung gian hoặc như những hormone. Một vài loại cytokine như các interleukin và các lymphokin khác được bài tiết từ các tế bào hỗ trợ và ảnh hưởng lên những tế bào của hệ miễn dịch. Các hormone cytokine (ví dụ leptin,…) được tiết bởi tế bào tạo mỡ thường được gọi là các adipokine.

Luôn ghi nhớ rằng tất cả những chất truyền tin hóa học hoạt động phối hợp và tương tác lẫn nhau để duy trì hằng định nội môi trong cơ thể. Ví dụ, tuyến thượng thận và tuyến yên bài tiết hormone chủ yếu phụ thuộc vào sự kích thích thần kinh. Những tế bào thần kinh nội tiết, nằm ở vùng dưới đồi, có những sợi trục tận cùng ở thùy trước tuyến yên và vùng lồi giữa tuyến yên và những tế bào này tiết ra một vài hormone thần kinh, bao gồm hormone chống bài niệu, oxytocin và hormone kích thích tuyến yên, những hormone này điều khiển sự chế tiết của thùy trước tuyến yên.

Những hormone thể dịch được vận chuyển trong hệ tuần hoàn đến các tế bào đích trong cơ thể, gồm cả các tế bào trong hệ thần kinh, tại nơi chúng gắn vào các receptor và tạo ra sự phản hồi của tế bào. Một số hormone thể dịch gây ảnh hưởng lên nhiều loại tế bào khác nhau của cơ thể; ví dụ, hormone tăng trưởng (GH- từ thùy trước tuyến yên) làm cho hầu hết các phần trên cơ thể phát triển, và hormone tuyến giáp (từ tuyến giáp) làm tăng chuyển hóa hóa học ở hầu hết các tế bào.

Những hormone khác gây ảnh hưởng chủ yếu lên một vài mô đích của cơ thể bởi vì những mô này có nhiều receptor đặc hiệu với những hormone này. Ví dụ, ACTH (hormone kích thích vỏ thượng thận) được tiết ra từ thùy trước tuyến yên gây tác dụng lên vùng vỏ thượng thận, kích thích chúng bài tiết các hormone vỏ thượng thận; và hormone buồng trứng chủ yếu tác dụng lên cơ quan sinh dục nữ và các đặc tính sinh dục thứ phát của phụ nữ.

Cấu trúc giải phẫu của các tuyến nội tiết

Hình. Cấu trúc giải phẫu của các tuyến nội tiết chính và các mô của cơ thể.

Vị trí giải phẫu của các tuyến và mô nội tiết chính của cơ thể, ngoại trừ nhau thai, một nguồn bổ sung hormone sinh dục.

Các vùng nội tiết

Các vùng nội tiết

Bảng Các vùng nội tiết, các hormone, chức năng và cấu trúc của chúng

Những hệ hormone này đóng một via trò quan trọng chi phối gần như toàn bộ các chức năng cử cơ thể, bao gồm chức năng chuyển hóa, sinh trưởng và phát triển, cân bằn nước điện giải, sinh sản và hành vi. Ví dụ, nếu không có hormone tăng trưởng, một người sẽ trở thành người lùn. Nếu không có hormone T3, T4 từ tuyến giáp, hầu hết các phản ứng hóa học sẽ trở nên chậm chạp và người đó cũng trở nên chậm chạp. Nếu không có insulin từ tuyến tụy, các tế bào của cơ thể không thể sử dụng được carbohydrat để tạo năng lượng. Và nếu không có các hormone sinh dục, sự phát triển sinh dục và chức năng sinh dục sẽ bị đình trệ.

Bài viết cùng chuyên mục

Đại cương sinh lý tim mạch

Vòng tiểu tuần hoàn mang máu tĩnh mạch từ tim phải theo động mạch phổi lên phổi, ở mao mạch phổi, khí cacbonic được thải ra ngoài và máu nhận oxy để trở thành máu động mạch, theo tĩnh mạch phổi về tim trái, tiếp đó bắt đầu một chu trình tương tự qua vòng đại tuần hoàn.

Các bất thường của áp lực đẩy máu động mạch

Ở người hẹp van động mạch chủ, đường kính của van động mạch chủ khi mở bị hạn chế rõ ràng và áp lực mạch chủ đập cũng giảm rõ bởi vì dòng máu đi ra bị giảm khi qua van bị hẹp đó.

Phospholipids và Cholesterol trong cơ thể

Phospholipid được chi phối bởi yếu tố điều hòa kiểm soát tổng thể quá trình chuyển hóa chất béo. Cholesterol có ở trong khẩu phần ăn bình thường và nó có thể được hấp thu chậm từ hệ thống ruột vào các bạch huyết ruột

Vận chuyển hormone trong máu

Các hormone tan trong nước được hòa tan vào huyết tương và được vận chuyển từ nơi chúng được tạo ra đến các mô đích, tại đó chúng sẽ khuếch tán khỏi lòng mao mạch, đi vào khoang dịch kẽ.

Hiệu suất hoạt động trong suốt sự co cơ

Năng lượng cần thiết để thực hiện hoạt động được bắt nguồn từ các phản ứng hóa học trong các tế bào cơ trong khi co, như mô tả trong các phần sau.

Sinh lý học các chất điện giải trong cơ thể

ADH tăng tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Khi Na+ máu dưới 135 mEq/l, thuỳ sau tuyến yên ngừng tiết ADH gây bài xuất nhiều nước tiểu loãng.

Tỷ lệ thay đổi hô hấp: thương số hô hấp

Khi O2 phản ứng với chất béo, một phần lớn của O2 kết hợp với các nguyên tử H+ từ các chất béo để tạo thành H2O thay vì CO2. Nói cách khác, khi chất béo được chuyển hóa.

Vai trò của O2 trong điều hòa hô hấp: điều hòa hô hấp bởi thụ thể ngoại vi

Oxygen không có ảnh hưởng trực tiếp tới trung tâm hô hấp của não trong việc điều hòa hô hấp. Thay vào đó, nó tác động gần như hoàn toàn lên các hóa thụ thể ở ngoại vi nằm trong động mạch cảnh và thân động mạch chủ.

Đại cương sinh lý học gan mật

Giữa các tế bào gan và lớp tế bào nội mô xoang mạch có một khoảng gọi là khoảng Disse, đây là nơi xuất phát hệ bạch huyết trong gan.

Áp suất thủy tĩnh của dịch kẽ

Trong hầu hết các hốc tự nhiên của cơ thể, nơi có dịch tự do ở trạng thái cân bằng động với chất lỏng xung quanh, những áp lực đo được là âm.

Block nút nhĩ thất: chặn đường truyền tín hiệu điện tim

Thiếu máu nút nhĩ thất hoặc bó His thường gây chậm hoặc block hẳn dẫn truyền từ nhĩ đến thất. Thiếu máu mạch vành có thể gây ra thiếu máu cho nút nhĩ thất và bó His giống với cơ chế gây thiếu máu cơ tim.

Vai trò tạo điều kiện thuận lợi và ức chế khớp thần kinh (synap)

Trí nhớ thường được phân loại theo loại thông tin mà nó lưu trữ. Một trong những cách phân loại đó là chia trí nhớ thành trí nhớ tường thuật (declarative memory) và trí nhớ kỹ năng (skill memory).

Adenosine Triphosphate: chất mang năng lượng trong chuyển hoá

Carbohydrat, chất béo, and protein đều được tế bảo sử dụng để sản xuất ra một lượng lớn adenosine triphosphate, là nguồn năng lượng chính cho mọi hoạt động của tế bào. Vì vậy, ATP được gọi là “chất mang năng lượng” trong chuyển hoá tế bào.

Hoạt hóa và các receptor của hormone

Số lượng receptor tại các tế bào đích thường không hằng định, những receptor protein thường bị bất hoạt hoặc phá hủy trong quá trình chúng thực hiện chức năng.

Sinh lý nội tiết tuyến giáp

Tuyến giáp nằm trước khí quản, dưới sụn giáp, nặng 20-25g, gồm 2 thùy, có eo ở giữa, cao 6cm, rộng 3cm, dày 2cm. Cấu trúc gồm nhiều nang giáp, trong chứa đầy dịch keo, xen lẫn hệ thống mạch máu rất phong phú (1% lưu lượng tim), ở đây tổng hợp và dự  trữ hormon T3, T4.

Nguồn gốc của chất dinh dưỡng trong dịch ngoại bào

Trong tất cả, dịch ngoại bào chỉ chiếm khoảng một phần ba tổng số dịch của cơ thể. Đây là điển hình ở người, nhưng tỷ lệ có thể thay đổi ở các sinh vật khác có chế độ lưu thông khác nhau.

Kênh cổng điện thế natri và kali

Khi các kênh kali mở, chúng vẫn mở cho toàn bộ thời gian điện thế màng hoạt động và không đóng lại cho đến khi điện thế màng được giảm trở lại một giá trị âm.

Bài tiết ion bicacbonat của tuyến tụy

Khi tuyến tụy bị kích thích để bài tiết ra một lượng dịch tụy dồi dào, nồng độ bicacbonat có thể lên cao tới khoảng 145 mEq/L, gấp khoảng 5 lần nồng độ ionbicacbonat trong huyết tương.

Đại cương sinh lý nước điện giải trong cơ thể

Nước là thành phần đơn độc lớn nhất của cơ thể. Trẻ em có tỷ lệ phần trăm nước so với trọng lượng cơ thể cao nhất, chiếm 75%

Gen trong nhân tế bào kiểm soát tổng hợp protein

Tầm quan trọng DNA nằm trong khả năng kiểm soát sự hình thành của protein trong tế bào. Khi hai sợi của một phân tử DNA được tách ra, các bazơ purine và pyrimidine nhô ra ở mặt bên của mỗi sợi DNA.

Cortisol quan trọng trong chống stress và chống viêm

Mặc dù cortisol thường tăng nhiều trong tình trạng stress, một khả năng là glucocorticoid làm huy động nhanh acid amin và chất béo từ tế bào dự trữ.

Hệ mạch cửa dưới đồi yên của thùy trước tuyến yên

Mạch máu đi vào các xoang đầu tiên đều đi qua giường mao mạch ở phần dưới vùng dưới đồi, dòng máu sau đó chảy qua các mạch cửa dưới đồi yên rồi đổ vào các xoang ở tuyến yên trước.

Rung nhĩ: nhịp thất không đều

Nút A-V sẽ không truyền nút xung thứ hai trong vòng 0,35s sau xung đầu tiên, xung thêm trong khoảng rộng từ 0-0,6s diễn ra trước một trong các xung của rung nhĩ không đều đến nút nhĩ thất.

Điều hòa lưu lượng máu bằng cách phát triển tuần hoàn bàng hệ

Sự mở các tuần hoàn bàng hệ sau đó trong vòng nhiều giờ kế tiếp, sao cho trong vòng 1 ngày, một nửa mô cần máu có thể được đáp ứng, và trong vòng 1 vài ngày dòng máu thường đủ để đến các mô.

Nhãn áp: sự điều tiết nhãn áp của mắt

Trong hầu hết các trường hợp của bệnh tăng nhãn áp, nguyên nhân chính gây nhãn áp cao bất thường là do tăng sức cản khi thoát thủy dịch qua khoảng trabecular vào kênh của Schlemm.