Dịch vào ra của cơ thể: cân bằng trong trạng thái ổn định

2020-08-28 12:58 PM

Dịch trong cơ thể rất hằng định, bởi vì nó liên tục được trao đổi với môi trường bên ngoài cũng như với các bộ phận khác trong cơ thể.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Việc duy trì sự ổn định về thể tích và thành phần các chất là vô cùng cần thiết cho chuyển hóa của cơ thể. Do dó việc rối loạn hệ thống điều hòa dịch cơ thể đã đặt ra nhiều vấn đề mà các nhà lâm sàng cần giải quyết.

Dịch trong cơ thể rất hằng định, bởi vì nó liên tục được trao đổi với môi trường bên ngoài cũng như với các bộ phận khác trong cơ thể. Ví dụ, lượng dịch vào có thể rất khác nhau tùy từng thời điểm nhưng nó luôn luôn tương xứng với lượng dịch thải ra, để tránh tình trạnh thiếu hay thừa dịch.

Lượng dịch vào

Nước cung cấp cho cơ thể từ 2 nguồn chính: (1) Nước được cung cấp qua đường tiêu hóa dưới dạng chất lỏng hay từ các thức ăn hàng ngày, số lượng khoảng 2100 ml một ngày; (2) Nước được tổng hợp từ quá trình oxi hóa cacborhydrat trong cơ thể, cung cấp khoảng 200ml mỗi ngày. Hai con đường này cung cấp cho cơ thể 2300 ml nước/ ngày. Tuy nhiên số lượng trên không hằng định, nó khác nhau giữa từng cá thể, từng ngày, phụ thuộc vào thời tiết, thói quen và hoạt dộng của cơ thể trong ngày.

Lượng dịch thải ra

Mất nước vô hình

Mỗi ngày, trong điều kiện bình thường, khi cơ thể hoạt động sẽ liên tục thải nước ra ngoài thông qua hệ thống hô hấp, qua da, với số lượng khoảng 700 ml/ngày. Sự đào thải này gọi là “mất nước vô hình” bởi vì nó diễn ra liên tục một cách tự nhiên và chúng ta không hề nhận thức được.

Sự mất nước này ở da trung bình khoảng 300 - 400ml/ngày và hoàn toàn khác biệt với việc đổ mồ hôi, nó hiện diện ngay ở những người không có tuyến mồ hôi bẩm sinh. Lớp sừng ở da với đặc tính không thấm nước là một hàng rào hạn chế việc thoát nước ở trên, chính vì vậy ở những người bị bỏng, khi mà lớp sừng của da bị tổn thương mất chức năng của nó, việc mất nước qua da có thể tăng lên gấp 10 lần, tức là 3-4l/ngày. Do đó với những bệnh nhân bị bỏng, việc bù dịch với số lượng lớn, thường qua đường tĩnh mạch là vô cùng quan trọng.

Sự mất nước kiểu này còn diễn ra qua đường hô hấp, số lượng 300-400ml/ngày. Khi hít thở, không khí đi vào hệ thống hô hấp, trở nên bão hòa nước, với áp lực 47mm Hg, trước khi chúng được đưa ra ngoài. Bởi vì áp lực hơi nước trong không khí khi đi vào phổi luôn nhỏ hơn 47 mm Hg, cho nên luôn có một lượng nhất định hơi nước bị mất đi khi không khí bão hòa được đẩy ra, chính điều này làm mất nước cơ thể. Khi thời tiết lạnh, hanh khô, áp lực hơi nước trong không khí gần như bằng 0 thì một lượng lớn nước bị mất mỗi lần hít thở. Đó là lí do vì sao khi trời lạnh, chúng ta lại cảm thấy khô họng.

Mất nước qua mồ hôi

Lượng nước bị mất qua quá trình bài tiết mồ hôi rất khác nhau tùy từng thời điểm, nhiệt độ, thời tiết cũng như hoạt dộng hàng ngày của cơ thể. Trung bình lượng nước mất qua mồ hôi là 100ml/ ngày nhưng khi trời nóng hay khi hoạt động thể lực, lượng nước có thể mất tới 1-2 l/ giờ, làm thiếu hụt trầm trọng dịch cơ thể nếu không được bổ sung kịp thời.

Mất nước qua phân

Chỉ một lượng nhỏ nước bị mất qua phân, khoảng 100ml/ngày, nhưng với những bệnh nhân ỉa chảy, có thể lên tới hàng lít. Chính vì thế, những bệnh nhân ỉa chảy nếu không được bù dịch sẽ rất nguy hiểm.

Nước thải qua thận

Lượng nước đào thải hàng ngày còn được bài tiết qua thận, nơi có nhiều cơ chế giúp nó có khả năng đào thải nước. Và trên thực tế, điều quan trọng nhất là việc cân bằng giữa lượng nước vào và ra, hay sự cân bằng trong việc trao đổi ion, được thực hiện chủ yếu ở thận. Chẳng hạn, thận có thể chỉ bài tiết 0,5 L/ngày hay thậm chí 20L/ngày ở những người uống nhiều nước.

 

Bình thường

Tập thể dục nặng, kéo dài

Lượng dịch vào

 

 

Chất lỏng ăn vào năm 2100?

2100

?

Từ sự trao đổi chất 200 200

200

200

Tổng lượng ăn uống 2300?

2300

?

Lượng dịch thải ra

 

 

Không thể nhìn thấy: da

350

350

Không nhìn thấy được: phổi

350

650

Mồ hôi

100

5000

Phân

100

100

Nước tiểu

1400

500

Tổng lượng thải ra

2300

660

 

Các chất điện giải được cung cấp cho cơ thể cũng rất khác nhau tùy mỗi người. Ở một số người, lượng Na đưa vào hàng ngày có thể rất thấp ,20mEq/ ngày, cũng có thể khá cao 300-500 mEq/ngày. Chính vì vậy, thận có vai trò vô cũng quan trọng giúp cơ thể cân bằng nước và điện giải, kể cả trong những trường hợp bệnh lý.

Bài viết cùng chuyên mục

Đo thể tích hô hấp: ghi lại những thay đổi trong phép đo thể tích phổi

Thay đổi của thể tích phổi dưới tình trạng thở khác nhau. Mô tả sự kiện thông khí phổi, không khí trong phổi có thể được chia thành 4 thể tích và 4 dung tích  trung bình cho người lớn trẻ.

Sinh lý hệ mạch máu

Tim trái tống máu vào động mạch chủ, tạo ra một áp lực lớn đưa máu qua vòng tuần hoàn cho đến tim phải: áp lực cao nhất trong động mạch chủ và thấp nhất trong tâm nhĩ phải.

Nguồn gốc của chất dinh dưỡng trong dịch ngoại bào

Trong tất cả, dịch ngoại bào chỉ chiếm khoảng một phần ba tổng số dịch của cơ thể. Đây là điển hình ở người, nhưng tỷ lệ có thể thay đổi ở các sinh vật khác có chế độ lưu thông khác nhau.

Những emzym tiêu hóa của tuyến tụy

Khi ban đầu được tổng hợp trong các tế bào tụy, những enzyme phân giải protein tồn tại ở trạng thái không hoạt động gồm trypsinogen, chymotrypsinogen và procarboxypolypeptidase.

Kích thích và trương lực của hệ giao cảm và phó giao cảm

Hệ giao cảm và phó giao cảm hoạt hóa liên tục, và mức độ cơ bản chính là trương lực giao cảm và phó giao cảm. Ý nghĩa của trương lực là cho phép một hệ thần kinh đơn độc có thể đồng thời làm tăng và giảm hoạt động của cơ quan chịu kích thích.

Tập trung mắt: điều hòa điều tiết mắt

Khi mắt tập trung vào một đối tượng ở xa và sau đó phải đột ngột tập trung vào một đối tượng ở gần, thấu kính thường điều tiết với sự nhạy bén thị giác tốt nhất trong thời gian ít hơn 1 giây.

Kiểm soát nhiệt độ cơ thể bởi sự cân bằng giữa sinh nhiệt và mất nhiệt

Khi mức nhiệt sinh ra trong cơ thể cao hơn mức nhiệt mất đi, nhiệt sẽ tích lũy trong cơ thể và nhiệt độ của cơ thể tăng lên. Ngược lại, khi nhiệt mất đi nhiều hơn, cả nhiệt cơ thể và nhiệt độ của cơ thể đều giảm.

Kiểm soát mức độ chính xác của co cơ: sự điều hòa ngược của hệ thống cảm giác thân thể tới vỏ não vận động

Tủy sống có thể gây ra các chương trình phản xạ vận động cụ thể có tính cố định. Nhiều những chương trình như vậy cũng có vai trò quan trọng khi các neuron vận động ở sừng trước của tủy sống bị kích thích.

Sinh lý thần kinh bán cầu đại não

Để nghiên cứu các vùng chức năng của vỏ não, người ta phân chia vỏ não theo nhiều cách khác nhau. Trong đó, cách phân chia vỏ não thành 50 vùng đánh số từ 1 đến 50 của Brodmann là thông dụng hơn cả.

Sinh lý thần kinh vùng dưới đồi

Vùng dưới đồi có chức năng chống bài niệu thông qua ADH (antidiuretic hormon), đây là một hormon do nhân trên thị và nhân cạnh não thất bài tiết.

Cấu trúc chức năng sinh lý tim

Thành cơ tim thất trái dày gấp hai đến bốn lần thành thất phải, do nó phải bơm máu với áp lực cao hơn để thắng sức cản lớn của tuần hoàn hệ thống.

Chức năng của Lipoproteins trong vận chuyển Cholesterol và Phospholipids

Hầu hết các lipoprotein được hình thành ở gan, đó cũng là nơi mà hầu hết các cholesterol huyết tương, phospholipid và triglycerides được tổng hợp.

Chức năng của túi tinh

Tinh dịch có chứa nhiều fructose và nhiều chất dinh dưỡng khác đảm bảo nuôi dưỡng tinh trùng từ lúc xuất tinh đến khi một trong số chúng có thể thụ tinh với trứng.

Tín hiệu nội bào sau khi receptor hormone được kích hoạt

Nhiều loại mô khác nhau có cùng loại receptor nội bào giống nhau, tuy nhiên gen được kích thích bởi các receptor ở một số mô lại khác nhau.

Thay đổi tuần hoàn của trẻ khi sinh

Những thay đổi cơ bản ở tuần hoàn thai nhi lúc sinh được mô tả trong mối liên quan với những bất thường bẩm sinh của ống động mạch và lỗ bầu dục mà tồn tại trong suốt cuộc sống của một ít người.

Shock điện khử rung thất: điều trị rối loạn nhịp tim

Dòng điện khử rung được đưa đến tim dưới dạng sóng hai pha. Dạng dẫn truyền này về căn bản giảm năng lượng cần thiết cho việc khử rung, và giảm nguy cơ bỏng và tổn thương cơ tim.

Cấu trúc chức năng tế bào của Phospholipid và Cholesterol - Đặc biệt đối với màng

Phospholipids và cholesterol hình thành các yếu tố cấu trúc các tế bào là tốc độ đổi mới chậm của các chất trong hầu hết các mô ngoài mô gan được tính theo tháng hoặc theo năm.

Giải phóng năng lượng cho cơ thể bằng con đường kỵ khí - Đường phân kỵ khí

Lactic acid được tổng hợp trong quá trình đường phân kỵ khí không mất đi khỏi cơ thể bởi vì khi oxy đầy đủ trở lại, lactic acid có thể chuyền về thành glucose hoặc được sử dụng chính xác để giải phóng năng lượng.

Synap thần kinh trung ương: Receptor kích thích hay ức chế tại màng sau synap

Thay đổi về quá trình chuyển hóa nội bào ví dụ như làm tăng số lượng thụ thể màng kích thích hoặc giảm số lượng thụ thể màng ức chế cũng có thể kích thích hoạt động của tế bào thần kinh.

Trí nhớ trung hạn của con người

Bằng cách gián tiếp, mục đích của kích thích cúc tận cùng được thuận hóa ở cùng thời gian cúc tận cùng cảm giác được kích thích gây ra kéo dài tăng độ nhạy của cúc tận cùng cảm giác, thành lập dấu vết trí nhớ.

Hoạt động chuyển hóa tế bào của Aldosterol

Aldosterol không có tác dụng vận chuyển natri ngay lập tức; đúng hơn tác dụng này phải chờ hình thành liên tục những chất đặc biệt cần thiết vận chuyển natri.

Điều hòa bài tiết glucagon

Tầm quan trọng của kích thích axit amin tiết glucagon là glucagon sau đó thúc đẩy chuyển đổi nhanh chóng của các axit amin thành glucose, do đó thậm chí làm tăng glucose có trong các mô.

Adenosine Triphosphate là đơn vị tiền tệ năng lượng của cơ thể

Adenosine triphosphate móc xích cần thiết giữa chức năng sử dụng và sản xuất năng lượng của cơ thể. Vì lý do này, ATP được gọi là đơn vị tiền tệ năng lượng của cơ thể.

Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh

Đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau, một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan và hệ thống kiểm soát chưa được thích nghi.

Kích thích: quá trình khởi đầu cho điện thế màng tế bào hoạt động

Kích thích điện âm yếu có thể không có khả năng kích thích một sợi. Tuy nhiên, khi điện áp của sự kích thích được tăng lên, tới một điểm mà tại đó sự kích thích không diễn ra.