Đường truyền thần kinh thính giác: cơ chế thính giác trung ương

2021-09-20 12:56 PM

Trong trung tâm thính giác của thân não, sự kích thích thường không còn đồng bộ với tần số âm thanh trừ khi với âm thanh có tần số dưới 200 chu kỳ/giây.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đường truyền thính giác

Sợi thần kinh từ hạch xoắn của Corti dẫn đến nhân ốc lưng và nhân ốc bụng nằm trong phần trên tủy sống. Tại đây, tất cả các sợi synap với neutron thứ hai và chúng chủ yếu bắt chéo qua bên đối diện của thân não để kết thúc ở nhân trám trên. Một vài sợi thứ hai cũng đi qua nhân trám trên ở cùng bên. Từ nhân trám trên, đường thính đi qua dải cảm giác bên.

Các con đường thần kinh thính giác

Hình. Các con đường thần kinh thính giác.

Một vài sợ tận cùng tại nhân của dải cảm giác bên, nhưng nhiều sợi đi vòng qua nhân này và chạy tới gò dưới, nơi hầu như tất cả các sợi thính giác đều synap. Từ đây, đường thính đi tới nhân thể gối, nơi tất cả các sợi đều synap. Cuối cùng đường thính đi lên qua tia thính giác tới vỏ não thính giác, nằm chủ yếu ở hồi trên thùy thái dương.

Một vài điểm quan trọng cần chú ý.

Một là, tín hiệu đến từ hai tai được dẫn truyền qua đường thính của cả hai bên não, với sự dẫn truyền ưu thế hơn ở đường thính đối bên. Ở ít nhất ba vị trí trên thân não xảy ra sự bắt chéo giữa hai đường thính: (1) trong thể thang, (2) ở mép giữa hai nhân của dải cảm giác bên, và (3) ở mép nối hai gò dưới.

Thứ hai, nhiều sợi bên từ bộ máy thính giác đi trực tiếp đến hệ lưới hoạt hóa của thân năo. Hệ này hoạt hóa lên thân năo và hoạt hóa xuống vào tủy sống và hoạt hóa toàn bộ hệ thần kinh để đáp ứng với các âm thanh lớn. Các sợi bên khác đi tới thùy nhộng tiểu não, nơi sẽ được hoạt hóa ngay lập tức trong trường hợp có tiếng ồn đột ngột.

Thứ ba, sự định hướng không gian cao độ được duy trì trong bộ máy các sợi từ ốc tai cho đến vỏ não. Thực tế rằng có ba cấu trúc không gian nơi tận cùng của các âm thanh có tần số khác nhau trong nhân ốc, hai cấu trúc trong gò dưới, một cấu trúc cho các âm thanh có tần số riêng trong vỏ não thính giác, và ít nhất năm cấu trúc chưa xác định khác trong vỏ não thính giác và vùng kết hợp thính giác.

Tốc độ kích thích tại các mức khác nhau của đường thính

Một tế bào thần kinh đi vào nhân ốc tai có thể kích thích ở tốc độ lên tới ít nhất 1000 lần mỗi giây, với tốc độ được quyết định chủ yếu bởi độ lớn của âm thanh. Ở mỗi tần số âm thanh từ 2000 đên 4000 chu kì/giây, các xung thần kinh thính giác thường xảy ra cùng lúc với các sóng âm, nhưng điều này không cần thiết với mọi sóng âm.

Trong trung tâm thính giác của thân não, sự kích thích thường không còn đồng bộ với tần số âm thanh trừ khi với âm thanh có tần số dưới 200 chu kì/giây. Trên mức của gò dưới, thậm chí sự đồng bộ này đã mất. Sự phát hiện này cho thấy tín hiệu âm thanh không phải được truyền không đổi trực tiếp từ tai đến các mức cao hơn của não; thay vào đó, thông tin từ tín hiệu âm thanh bắt đầu được phân tích từ sự dẫn truyền các xung ở mức thấp như nhân ốc tai. Chúng ta sẽ nói nhiều hơn vấn đề này sau, đặc biệt trong mối quan hệ với sự tri giác về hướng âm thanh đến.

Bài viết cùng chuyên mục

Sự thay đổi lưu lượng tuần hoàn trong luyện tập

Lúc bắt đầu luyện tập tín hiệu không chỉ truyền từ não đến cơ gây ra quá trình co cơ mà còn tác động lên trung tâm vận mạch thông qua hệ giao cảm đến các mô.

Tốc độ cung cấp máu cho cơ

Sự thay đổi lưu lượng máu trong quá trình co cơ. Lưu lượng tăng và giảm với mỗi cơ. Ở cuối thời kì co cơ, tốc độ máu tăng cao một vài giây và quay trở lại trạng thái bình thường trong vài phút sau đó.

Suy nghĩ ý thức và trí nhớ của con người

Mỗi suy nghĩ bao gồm những tín hiệu đồng thời trên nhiều vùng của vỏ não, đồi thị, hệ viền, và chất lưới của thân não. Một vài suy nghĩ cơ bản hầu như chắc chắn phụ thuộc hầu hết hoàn toàn vào trung tâm dưới vỏ.

Vai trò của insulin trong chuyển đổi carbohydrate và chuyển hóa lipid

Khi nồng độ glucose máu cao, insulin được kích thích bài tiết và carbohydrate được sử dụng thay thế chất béo. Glucose dư thừa trong máu được dự trữ dưới dạng glycogen và chất béo ở gan, glycogen ở cơ.

Vai trò của nước bọt trong việc vệ sinh răng miệng

Miệng luôn luôn phải chịu đựng một lượng lớn vi khuẩn gây bệnh có khả năng hủy hoại mô một cách dễ dàng và gây nên sâu răng. Nước bọt giúp ngăn cản quá trình có hại này theo một số cách.

Hệ thần kinh thực vật chi phối đường tiêu hóa

Sự kích thích hệ giao cảm sẽ ức chế hoạt động của đường tiêu hóa, đối lập với hệ phó giao cảm. Nó tác động theo 2 đường: tác dụng trực tiếp của norepinephrine và do norepinephrine.

Hiệu quả của hệ thống điều hòa cơ thể

Nếu xem xét sự tự nhiên của điều hòa ngược dương tính, rõ ràng điều hòa ngược dương tính dẫn đến sự mất ổn định chức năng hơn là ổn định và trong một số trường hợp, có thể gây tử vong.

Giám lưu lượng máu não: đáp ứng của trung tâm vận mạch thần kinh trung ương

Mức độ co mạch giao cảm gây ra bởi thiếu máu não thường rất lớn ở mạch ngoại vi làm cho tất cả hoặc gần như tất cả các mạch bị nghẽn.

Vận chuyển acid béo tự do trong máu dưới dạng kết hợp với albumin

Ba phân tử acid béo liên kết với một phân tử albumin, nhưng nhu cầu acid béo dạng vận chuyển lớn thì có khoảng 30 phân tử acid béo có thể liên kết với một phân tử albumin.

Xác định hướng đến của âm thanh: cơ chế thính giác trung ương

Sự định hướng không gian của các tín hiệu sau đó sẽ được truyền tới vỏ não thính giác, nơi mà hướng của âm thanh được xác định bởi vị trí các tế bào thần kinh bị kích thích tối đa.

Tổng quan tác dụng của PTH

PTH kích thích tiêu hủy xương, giải phóng canxi vào dịch ngoại bào, làm tăng tái hấp thu canxi và giảm tái hấp thu phosphate của ống thận, dẫn đến giảm bài tiết canxi và tăng bài tiết phosphate.

Chức năng của tuyến tùng trong kiểm soát sinh sản theo mùa ở một số động vật

Tuyến tùng chỉ là một phần thoái hóa không có chức năng, nhưng một số phát hiện trong những năm trở lại đây cho thấy nó đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát hoạt động sinh dục và sinh sản.

Các chuyển đạo trước tim (chuyển đạo ngực): các chuyển đạo điện tâm đồ

ECG của tim người khỏe mạnh như ghi lại từ sáu chuyển đạo ngực tiêu chuẩn. Vì các mặt của tim là gần với thành ngực, mỗi chuyển đạo ngực ghi lại chủ yếu là điện thế của hệ cơ tim ngay bên dưới điện cực.

Insulin là hormon liên quan đến sự thừa năng lượng

Carbohydrate dư thừa nếu không thể được dự trữ dưới dạng glycogen sẽ được chuyển thành chất béo dưới sự kích thích của insulin và được dự trữ ở mô mỡ.

Điện tâm đồ: nguyên tắc phân tích trục điện tim

Bất kỳ sự thay đổi nào về sự dẫn truyền xung động này có thể gây ra sự bất thường điện thế của tim và hậu quả là gây ra sự thay đổi hình dạng các sóng trên điện tâm đồ.

Những emzym tiêu hóa của tuyến tụy

Khi ban đầu được tổng hợp trong các tế bào tụy, những enzyme phân giải protein tồn tại ở trạng thái không hoạt động gồm trypsinogen, chymotrypsinogen và procarboxypolypeptidase.

Giải phóng năng lượng từ Glucose theo con đường Pentose Phosphate

Con đường Pentose Phosphate có thể cung cấp năng lượng một cách độc lập với tất cả các enzym của chu trình citric acid và do đó là con đường thay thế cho chuyển hóa năng lượng khi có bất thường của enzym xảy ra trong tế bào.

Một số rối loạn sinh lý thân nhiệt

Sốt là trạng thái tăng thân nhiệt xảy ra do điểm chuẩn bị nâng lên cao hơn bình thường. Khi đó, các đáp ứng tăng thân nhiệt xuất hiện và đưa thân nhiệt tăng lên bằng điểm chuẩn mới gây nên sốt.

Cơ sở giải phẫu của hấp thu ở ruột

Bề mặt hấp thu của niêm mạc ruột non, thể hiện nhiều nếp gấp được gọi là nếp vòng, chúng tăng diện tích hấp thu của niêm mạc khoảng 3 lần, chúng thường nhô lên 8mm vào lòng ruột.

Chức năng của vùng hải mã: vùng kéo dài của vỏ não

Hải mã và các cấu trúc nằm cạnh thùy thái dương và thùy đỉnh, được gọi là khối hải mã liên kết chủ yếu gián tiếp với nhiều phần của vỏ não cũng như các cấu trúc cơ bản của hệ limbic – thể hạnh nhân, vùng dưới đồi, vách trong suốt và thể vú.

Thể tích hô hấp trong một phút

Thể tích hô hấp mỗi phút trung bình 6lit/phút. Một người có thể sống với giai đoạn ngắn nhất là thể tích hô hấp mỗi phút thấp khoảng 1,5lit/phút và tốc độ hô hấp chỉ khoảng 2-4 nhịp/ phút.

Khoảng kẽ và dịch kẽ: dịch và không gian giữa các tế bào

Khoảng một phần sáu tổng thể tích của cơ thể là không gian giữa các tế bào, chúng được gọi là khoảng kẽ. Các chất lỏng trong các không gian này được gọi là dịch kẽ.

Khả năng duy trì trương lực của mạch máu

Khả năng thay đổi trương lực của tĩnh mạch hệ thống thì gấp khoảng 24 lần so với động mạch tương ứng bởi vì do khả năng co giãn gấp 8 lần và thể tích gấp khoảng 3 lần.

Hormon tuyến giáp làm tăng hoạt động chuyển hóa tế bào

Hormon tuyến giáp tăng hoạt động chuyển hóa ở hầu hết tất cả các mô trong cơ thể. Mức chuyển hóa cơ sở có thể tăng 100 phần trăm trên mức bình thường nếu hormon tuyến giáp được bài tiết nhiều.

Đại cương thân nhiệt cơ thể người

Tất cả các phản ứng tế bào, sinh hoá và enzyme đều phụ thuộc nhiệt độ. Vì thế, sự điều hoà thân nhiệt tối ưu là cần thiết cho các hoạt động sinh lý ở động vật hằng nhiệt.