- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Chức năng phần sau trên của thùy thái dương - vùng wernicke (diễn giải phổ biến)
Chức năng phần sau trên của thùy thái dương - vùng wernicke (diễn giải phổ biến)
Kích thích điện khu vực Wernicke trong một người có ý thức đôi khi gây ra một suy nghĩ rất phức tạp, đặc biệt khi các điện cực kích thích đươc truyền đủ sâu vào não để tiếp cận các khu vực liên kết tương ứng với đồi thị.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Cảm giác bản thể, thị giác, thính giác và các khu vực liên hợp tất cả gặp nhau tại phần sau trên của thùy thái dương, gồm cả thùy thái dươn, thùy đỉnh và thùy chẩm. Khu vực này là hội tụ của các khu vực diễn giải cảm giác khác nhau, đặc biệt phát triển mạnh ở vùng chi phối bên não trái ở hầu hết người thuận tay phải, và nó đóng vai trò duy nhất cho bất kì một phần vỏ não nào trong việc tìm hiểu cao hơn mức độ chức năng của não mà ta gọi là trí tuệ. Vì vậy, vùng này đã được gọi bằng những cái tên khác nhau cho một vùng có tầm quan trọng gần như lớn nhất: khu vực diễn giải chung, khu vực ngộ đạo, khu vực hiểu biết, khu vực liên hợp thứ ba, và còn nhiều nữa.

Hình. Tổ chức các khu vực liên kết thính giác và thị giác soma thành một cơ chế chung để giải thích trải nghiệm giác quan. Tất cả những nguồn này cũng vào vùng Wernicke, nằm ở phần sau của thùy thái dương. Cũng cần lưu ý vùng trước trán và vùng nói của Broca ở thùy trán.
Hiểu biết đáng tự hào nhất là vùng Wernicke trong danh dự của các nhà thần kinh học, những người đã mô tả tầm quan trọng đặc biệt của nó trong quá trình trí tuệ. Sau những thương tổn nghiêm trọng vùng Wernicke, một người có thể nghe được hoàn toàn tốt và thậm chí nhận ra các từ khác nhau nhưng vẫn không thể sắp xếp từ ngữ vào một ý nghĩa mạch lạc. Tương tự, người bệnh có thể đọc chữ từ trang giấy nhưng không thể nhận ra ý nghĩa được chuyển tải.
Kích thích điện khu vực Wernicke trong một người có ý thức đôi khi gây ra một suy nghĩ rất phức tạp, đặc biệt khi các điện cực kích thích đươc truyền đủ sâu vào não để tiếp cận các khu vực liên kết tương ứng với đồi thị. Các loại suy nghĩ có thể có yếu tố kinh nghiệm, bao gồm những cảnh thị giác phức tạp từ thời thơ ấu, ảo giác thính giác như một bản nhạc cụ thể, hoặc thậm chí là một lời phát biểu của một người cụ thể. Vì lí do này, người ta tin rằng sự hoạt hóa vùng Wernicke có thể gọi ra trí nhớ phức tạp liên quan đến nhiều hơn một phương thức cảm nhận, mặc dù hầu hết các kí ức cá nhân có thể được lưu trữ đâu đó. Niềm tin này là thực tế với tầm quan trọng của vùng Wernicke trong việc giải thích ý nghĩa phức tạp của mô hình trải nghiệm cảm giác khác nhau.
Nếp cuộn góc - Giải thích thông tin thị giác
Nếp cuộn góc là phần cấp thấp của thùy đỉnh sau, nằm ngay phía sau khu vực Wernicke và làm khóa phía sau tới khu vực thị giác của thùy chẩm. Nếu khu vực này bị phá hủy trong khi vùng Wernicke ở thùy thái dương vẫn còn nguyên vẹn, ta vẫn có thể giải thích những thông tin thính giác, khi những thông tin của vỏ não thị giác bị chặn lại. Do đó, người bệnh có thể thấy chữ viết và biết đó là chữ viết những không thể giải thích ý nghĩa của chúng. Tình trạng này được gọi là chứng khó đọc hoặc mù từ ngữ.
Chúng ta nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trong đặc biệt của khu vực Wernicke cho việc xử lí hầu hết các chức năng trí tuệ của não bộ. Mất vùng này ở người lớn thường dẫn đến thời gian sau đó gần như điên loạn.
Khái niệm của sự ưu thế
Các chức năng diễn giải chung của khu vực Wernicke và nếp cuộn góc, cũng như các chức năng của khu vực nói và điều khiển vận động, thường được đánh giá cao hơn ở một bán cầu não so với bán cầu còn lại. Do đó, bán cầu này được gọi là bán cầu ưu thế. Trong khoảng 95% số người, bán cầu trái là bán cầu ưu thế.
Ngay cả khi sinh ra, các khu vực vỏ não sẽ trở thành khu vực Wernicke lớn hơn 50% ở bán cầu não trái so với nó ở bên bán cầu não phải ở hơn một nửa số trẻ sơ sinh.
Vì vậy, dễ hiểu lí do vì sao phái bên trái bán cầu có thể ưu thế vượt trội bên phải. Tuy nhiên, nếu vì một lí do nào đó khu vực bên trái bị thương tổn hoặc loại bỏ sớm từ rất sớm, phía đối diện của não bộ sẽ phát triển vượt trội.
Các lí thuyết sau có thể giải thích cho khả năng ưu thế vượt trội của một bán cầu so với bán cầu còn lại. Sự chú ý của “tâm trí” dường như dẫn đến một suy nghĩ chủ yếu tại một thời điểm. Có lẽ, vì thùy thái dương sinh ra ở bên trái lớn hoen bên phải một chút, nên phía bên trái thường được bắt đầu sử dụng ở một mức độ lớn hơn. Sau đó, vì xu hướng chú ý của con người đến khu vực phát triển tốt hơn, tỉ lệ học tập ở bán cầu não ưu thế ban đầu tăng lên nhanh chóng, trong khi ngược lại, ở bên ít sử dụng, sự học tập đường như không phát triển tốt. Do đó, phái bên trái thường ưu thế trội hơn phái bên phải.
Ở khoảng 95% số người, thùy thái dương và nếp cuộn góc bên trái ưu thế vượt trội, và trong 5% còn lại, hoặc cả hai bên đồng thời có chức năng kép, hoặc hiếm hơn, một mình bên phải trở nên rất phát triển, ưu thế vượt trội một cách toàn diện.
Như đã thảo luận ở phần sau, khu vực tiền vận động lời nói (vùng Broca), nằm ở phía sau xa của thùy trán trung gian, cũng hầu như luôn chiếm ưu thế ở bên bán cầu trái. Vùng lời nói chịu trách nhiệm cho việc hình thàng các từ ngữ, đồng thời là các cơ thanh quản, cơ hô hấp, cơ miệng. Các khu vực vận động cho việc điều khiển tay cũng chiếm ưu thế ở bên trái trong khoảng 9 trên 10 người, do đó, người ta thuận tay phải trong hầu hết mọi người.
Mặc dù khu vực diễn giải của thùy thái dương và nếp cuộn góc, cũng như rất nhiều các khu vực vận động, thường chỉ được phát triển trong bán cầu não trái, các khu vực này nhận thông tin cảm giác từ cả hai bán cầu và cũng có khả năng điều khiển các hoạt động vận động ở cả hai bán cầu. Với mục đích này, nó sử dụng các con đường sợi xơ trong các thể chai để liên lạc giữa hai bán cầu. Tổ chức bắt chéo đơn nhất này ngăn cản sự giao thoa giữa hai bên của não bộ; sự can thiệp có thể tạo ra sự hủy hoại những suy nghĩ về tinh thần và cả đáp ứng vận động.
Vai trò của ngôn ngữ trong chức năng của vùng Wernicke và trong chức năng trí tuệ
Một lượng lớn chủ yếu của kinh nghiệm cảm giác được chuyển thể sang ngôn ngữ tương đương của nó trước khi được lưu trữ trong các vùng nhớ của não bộ và trước khi được xử lí cho mục đích trí tuệ khác. Ví dụ, khi chúng ta đọc một cuốn sách, ta không lưu trữ những hình ảnh trực quan của các từ ngữ được in, thay vì lưu trữ bản thân các từ hay sự chuyển tải ý nghĩa, thường ở dạng ngôn ngữ.
Các vùng cảm giác của bán cầu ưu thế cho sự giải thích ngôn ngữ là vùng Wernicke, và khu vực này liên quan chặt chẽ đến cả vùng thính giác sơ cấp và thứ cấp của thùy thái dương. Mối quan hệ chặt chẽ này có thể là kết quả của thực tế là việc tiếp xúc đầu tiên với ngôn ngữ bằng cách nghe.
Sau đó trong cuộc sống, khi nhận thức thị giác của ngôn ngữ thông qua các phương thức đọc phát triển, các thông tin hình ảnh được truyền đạt bằng viết văn bản, sau đó có lẽ được chuyển tới các nếp cuộn góc, một khu vực liên hợp thị giác, vào trong khu vực diễn giải ngôn ngữ Wernicke của thùy thái dương chiếm ưu thế.
Bài viết cùng chuyên mục
Lưu lượng máu đến ruột chịu ảnh hưởng của hoạt động và tác nhân chuyển hóa ruột
Mặc dù các nguyên nhân chính xác gây tăng lượng máu khi đường tiêu hóa hoạt động vẫn chữa được biết rõ, nhưng một vài phần đã được làm sáng tỏ.
Dẫn truyền tín hiệu cường độ đau trong bó thần kinh: tổng hợp theo không gian và thời gian
Các mức khác nhau của cường độ có thể được truyền đi hoặc bằng việc sử dụng số lượng lớn hơn các sợi dẫn truyền song song hoặc bằng việc gửi đi nhiều điện thế hoạt động hơn dọc một theo sợi thần kinh.
Điều hòa vận động: vai trò thoi cơ trong các vận động chủ động
Bất cứ khi nào phải thực hiện một động tác yêu cầu độ chính xác và tỉ mỉ, sự kích thích thích hợp từ cấu tạo lưới thân não lên các suốt cơ sẽ giúp duy trì tư thế của các khớp quan trọng, giúp thực hiện các động tác chi tiết một cách khéo léo.
Phân ly oxy - hemoglobin: các yếu tố thay đổi và tầm quan trọng tới sự vận chuyển ô xy
pH giảm hơn giá trị bình thường từ 7,4 xuống tới 7,2; đồ thị phân ly Oxy- hemoglobin chuyển sang phải trung bình khoảng 15 %. Ngược lại, sự gia tăng pH từ bình thường 7,4 lên tới7,6 đường cong cũng chuyển sang trái một lượng tương tự.
Gen trong nhân tế bào kiểm soát tổng hợp protein
Tầm quan trọng DNA nằm trong khả năng kiểm soát sự hình thành của protein trong tế bào. Khi hai sợi của một phân tử DNA được tách ra, các bazơ purine và pyrimidine nhô ra ở mặt bên của mỗi sợi DNA.
Receptor: sự nhậy cảm khác nhau của các receptor
Mỗi loại cảm giác cơ bản mà chúng ta có thể biết được như đau, sờ, nhìn, âm thanh và nhiều loại khác được gọi là một phương thức cảm giác.
Huyết áp động mạch: kiểm soát bằng lợi liệu áp lực
Lượng dịch vào và ra phải cân bằng tuyệt đối, nhiệm vụ này được thực hiện bởi điều khiển thần kinh và nội tiết và bởi hệ thống kiểm soát tại thận, nơi mà điều hòa bài tiết muối và nước.
Giải phẫu và sinh lý của cấp máu mạch vành
Hầu hết máu từ tĩnh mạch vành trái trở về tâm nhĩ phải thông qua xoang vành, chiếm 75%. Máu từ thất phải thông qua tĩnh mạch nhỏ chảy trực tiếp vào tâm nhĩ phải.
Cơ chế co cơ trơn
Một đặc tính quan trọng khác của cơ trơn, đặc biệt là loại cơ trơn đơn nhất nội tạng của nhiều cơ quan rỗng, là khả năng quay trở lại gần như lực co bóp ban đầu của nó vài giây hoặc vài phút sau khi nó bị kéo dài hoặc rút ngắn.
Giải phẫu và sinh lý của tụy
Tụy tiết nhiều hormon, như amylin, somatostatin, và pancreatic polypeptide, chức năng của chúng chưa được biết rõ. Mục đích chính là bàn về vai trò sinh lý của insulin và glucagon và sinh lý bệnh của các bệnh lý.
Dẫn truyền âm thanh từ màng nhĩ đến ốc tai: phối hợp trở kháng bởi xương con
Các xương con của tai giữa được treo bởi các dây chằng trong đó xương búa và xương đe kết hợp để hoạt động như một đòn bẩy, điểm tựa của nó ở ranh giới của màng nhĩ.
Sự xâm nhập tinh trùng vào trứng: các enzyme thể đỉnh và phản ứng thể đỉnh
Chỉ vài phút sau khi tinh trùng đầu tiên xâm nhập qua lớp màng sáng, các ion calci xâm nhập vào bên trong, tế bào phát động phản ứn g vỏ đổ các chất đặc biệt vào xoang quanh noãn.
Vai trò của hải mã trong học tập
Hải mã bắt nguồn như một phần của vỏ não thính giác. Ở nhiều động vật bậc thấp, phần vỏ não này có vai trò cơ bản trong việc xác định con vật sẽ ăn thức ăn ngon hay khi ngửi thấy mùi nguy hiểm.
Duy trì huyết áp động mạch bình thường: vai trò của hệ thống Renin-Angiotensin mặc dù có biến đổi lớn lượng muối vào
Hệ thống renin-angiotensin có lẽ là hệ thống mạnh mẽ nhất của cơ thể, làm thay đổi nhỏ huyết áp động mạch khi có lượng muối nhập vào dao động lớn.
Chức năng của vỏ não tiền đình - chẩm ở bán cầu não không ưu thế
Nghiên cứu tâm lí ở bệnh nhân có tổn thương bán cầu không ưu thế đã chỉ ra rằng bán cầu này có thể đặc biệt quan trọng đối với sự hiểu biết và nhận thức âm nhạc, kinh nghiệm thị giác phi ngôn ngữ.
Tác dụng sinh lý của vitamin D
Thụ thể vitamin D có mặt trong hầu hết các tế bào trong cơ thể và nằm chủ yếu trong nhân tế bào. Tương tự như các thụ thể steroid và hormone tuyến giáp, các thụ thể vitamin D có vùng bắt hocmon và vị trí bắt ở DNA.
Giải phẫu hệ động mạch cấp máu đường tiêu hóa
Cấu trúc đặc biệt của hệ thống mạch máu ở nhung mao ruột bao gồm các động mạch và tĩnh mạch nhỏ được kết nối với nhau bởi hệ thống mao mạch nhiều vòng.
Sinh lý thần kinh tiểu não
Tiểu não có chức năng điều hòa trương lực cơ, qua đó giữ thăng bằng cho cơ thể. Đồng thời, tiểu não được xem là một cơ quan kiểm soát
Chất dẫn truyền thần kinh: phân tử nhỏ tốc độ và tái chế
Trong hầu hết các trường hợp, các chất dẫn truyền thần kinh có phân tử nhỏ được tổng hợp tại bào tương của trạm trước synap và được vận chuyển tích cực vào túi chứa chất dẫn truyền.
Trao đổi dịch qua màng mao mạch
Áp lực tái hấp thu làm cho khoảng 9/10 lượng dịch đã được lọc ra khỏi đầu mao động mạch được hấp thụ lại ở mao tĩnh mạch. Một phần mười còn lại chảy vào các mạch bạch huyết và trả về tuần hoàn chung.
Điện thế và thời gian chia chuẩn: điện tâm đồ bình thường
Những dòng dọc trên ECG là dòng thời gian chia chuẩn. Một ECG điển hình được chạy ở một tốc độ giấy 25mm/s, mặc dù tốc độ nhanh hơn đôi khi được sử dụng.
Các phản xạ tự chủ của hệ thần kinh
Nhiều chức năng nội tạng của cơ thể được điều chỉnh bởi các phản xạ tự chủ. Một vài phản xạ của hệ tim mạch giúp kiểm soát huyết áp động mạch và tần số tim. Một trong nhưng phản xạ đó là phản xạ baroreceptor.
Receptor: sự thích nghi và chức năng dự báo receptor tốc độ
Sự thích ứng của các loại thụ thể khác nhau cho thấy sự thích nghi nhanh chóng của một số thụ thể và sự thích ứng chậm của những thụ thể khác.
Hệ thống bạch huyết: vai trò chính trong điều hòa nồng độ protein, thể tích và áp suất dịch kẽ
Chức năng của hệ thống bạch huyết như một “cơ chế tràn” để nhận lại protein dư thừa và lượng nước thừa trong khoảng kẽ vào tuần hoàn chung.
Phân tích đồ thị bơm máu của tâm thất
Đường cong áp suất tâm thu được xác định nhờ ghi lại áp suất tâm thu đạt được khi tâm thất co tại mỗi thể tích được làm đầy.
