Cấu tạo và chức năng các thành phần của răng

2020-07-05 04:47 PM

Cấu trúc tinh thể của muối làm cho men răng vô cùng cứng, cứng hơn nhiều so với ngà răng. Ngoài ra, lưới protein đặc biệt, mặc dù chỉ chiếm khoảng 1 phần trăm khối lượng men răng, nhưng làm cho răng có thể kháng axit, enzym.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hình là mặt cắt đứng dọc của răng, mô tả các bộ phận chính của răng:thân, men, ngà răng, xi măng, và tủy.Răng cũng có thể được chia thành thân, đó là phần nhô ra từ lợi vào miệng, và chân, đó là phần bên trong hốc xương hàm. Phần cổ giữa thân và chân răng được bao quanh bởi lợi được gọi là cổ.

Cấu tạo của răng

Hình. Cấu tạo của răng

Men

Mặt ngoài răng được bao phủ bởi một lớp men răng được hình thành trước khi mọc răng bởi các tế bào biểu mô đặc biệt gọi là ameloblasts. Khi răng đã mọc, men không được hình thành nữa. Men gồm dày đặccác tinh thể hydroxyapatite lớn cùng cacbonat hấp phụ, magiê, natri, kali, và các ion khác được nhúng trong một lưới các thành phần protein mạnh mẽ và không tan tương tự về tính chất vật lý (nhưng không hóa học giống hệt nhau) với keratin của mái tóc.

Cấu trúc tinh thể của muối làm cho men răng vô cùng cứng, cứng hơn nhiều so với ngà răng. Ngoài ra, lưới protein đặc biệt, mặc dù chỉ chiếm khoảng 1 phần trăm khối lượng men răng, nhưng làm cho răng có thể kháng axit, enzym và các tác nhân ăn mòn khác men do protein này là một trong những protein không hòa tan và có độ bền nhất.

Ngà

Phần lớn của răng là ngà răng,là một cấu trúc xương khỏe. Ngà răng được tạo thành chủ yếu của các tinh thể hydroxyapatite tương tự như trong xương nhưng đặc hơn. Tinh thể được nhúng trong 1 mạng lưới các sợi collagen nói cách khác, những thành phần chủ yếu của men răng cũng giống xương. Sự khác biệt chính là ở tổ chức mô học vì ngà răng không chứa bất kỳ tạo cốt bào, cốt bào, hủy cốt bào, hoặc không gian cho các mạch máu hay dây thần kinh. Thay vào đó, nó được lắng đọng và được nuôi dưỡng bởi một lớp tế bào gọi là odontoblasts,lớp ở bên trong dọc theo khoang tủy.

Muối canxi trong ngà răng làm cho nó cực kỳ bền với lực siết ép, và các thành collagen giúp chống lại và bền lực ép có thể xảy ra khi răng va đập với các vật thể rắn.

Xi măng

Xi măng là một chất dạng xương được tiết ra bởi các tế bào của màng huyệt răng (periodontal), lát ở huyệt răng. các sợi collagen vượt trực tiếp qua xương hàm, qua màng huyệt răng, và sau đó vào xi măng. Các sợi collagen và xi măng giữ răng chắc chắn tại chỗ. Khi răng tiếp xúc với lực kéo quá mạnh, lớp xi măng trở nên dày hơn và mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, nó cũng tăng độ dày và sức mạnh theo tuổi, giúp răng trở nên chắc chăn hơn n trong hàm ở tuổi trưởng thành và sau đó.

Tủy

Khoang tùy của mỗi răng chứ tủy răng ở trong, trong đó gồm mô liên kết chưaa dây thần kinh, mạch máu, hệ bạch huyết và tế bào họ lympho. Lótkhoang tủy là tế bào odontoblasts, trong suốt những năm hình thành của răng, ngà răng chiếm nhiều hơn và nhiều hơn nữa trên khoang tủy, làm cho nó nhỏ hơn. Sau 1 thời gian, ngà ngừng phát triển và khoang tủy chủ yếu vẫn không đổi trong kích thước. Tuy nhiên, các odontoblasts vẫn hoạt động,tạo ra các ống ngà nhỏ thâm nhập ngà răng; Nó có tác dụng quan trọng trong việc trao đổi canxi, phosphate, và các khoáng chất khác với ngà.

Bộ răng

Con người và hầu hết động vật có vú khác phát triển hai bộ răng trong suốt cả cuộc đời. Hàm răng đầu tiên được gọi là răng rụng lá, hoặc răng sữa, có 20 chiếc ở người. Răng mọc bắt đầu giữa tháng bảy và 24 tháng, và kéo dài cho đến 6 hoặc 13 tuổi. Khi 1 chiếc răng sữa rụng, Răng vĩnh viễn thay thế nó và thêm 8-12 răng hàm xuất hiện phía sau trong hàm, nâng tổng số răng vĩnh viễn 28-32, tùy thuộc vào việc có 4 răng khôn mọc không,điều không xảy ra trong tất cả mọi người.

Răng phát triển

Hình. A. răng nguyên thủy; B. phát triển răng; C. răng sữa.

Hình thành của răng

Hình cho thấy sự hình thành và mọc của răng. Hình miêu tả sự tự cuộn của biểu mô miệng vào phiến lá nha khoa, dẫn đến hình thành một cơ quan tạo răng (toothproducing). Các tế bào biểu mô trên tạo ra ameloblasts, cái mà sau này tạo thành lớp men bên ngoài của răng. Các tế bào biểu dưới cuộn vào giữa các răng để tạo thành khoang tủy và và odontoblasts tiết ra ngà. Như vậy, men được hình thành ở bên ngoài của răng và ngà răng được hình thành ở bên trong, tạo ra một chiếc răng đầu, như thể hiện trong hình.

Sự mọc

Trong suốt thời niên thiếu, răng bắt đầu nhô lên từ xương thông qua các biểu mô vào miệng. Nguyên nhân của sự “mọc” là không rõ, mặc dù co nhiều giả thuyết đã được đưa ra trong một nỗ lực để giải thích hiện tượng này. Thuyết có khả đưuọc ủng hộ nhất là sư tăng trưởng của chân và xương bên dưới răng dần dần đẩy răng lên trên.

Sự phát triển của răng vĩnh viễn

Khi phôi thai, một cơ quan tạo răng (toothforming) cũng phát triển trong lá nha khoa cho mỗi răng vĩnh viễn, nắm vai trò quan trọng khi răng sữa đã rụng hết. những cơ quan tạo răng (toothforming ) này từ từ hình thành răng vĩnh viễn trong suốt 6-20 năm đầu đời. Khi mỗi răng vĩnh viễn hình thành đầy đủ, nó, giống như răng sữa, đẩy ra bên ngoài qua các xương.

Khi làm như vậy, nó làm mòn chân răng sữa và cuối cùng làm nó lỏng lẽo và gẫy. Không lâu sau đó, các răng vĩnh viễn mọc để chiếm chỗ này.

Các yếu tố chuyển hóa ảnh hưởng sự phát triển của răng

Tốc độ của mọc răng có thể được đẩy nhanh bằng cả hai hocmon tuyến giáp và tăng trưởng. Ngoài ra, sự lắng đọng của các muối trong dạng sớm của răng ảnh hưởng đáng kể bởi các yếu tố khác nhau của quá trình chuyển hóa, chẳng hạn như sự sẵn co của canxi và phốt phát trong chế độ ăn uống, lượng vitamin D, và tốc độ tiết PTH. Khi tất cả những yếu tố này là bình thường, ngà răng và men răng sẽ tương ứng khỏe mạnh, nhưng khi thiếu, quá trình canxi hóa của răng cũng có thể bị lỗi và răng sẽ bất bất thường trong suốt cuộc đời.

Trao đổi khoáng trong răng

Muối, giống như xương, được cấu tạo của hydroxyapatite với cacbonat hấp thụ và các cation khác nhau liên kết với nhau trong một chất kết tinh cứng. Ngoài ra, muối mới liên tục được lắng động khi muối cũ tái hấp thu từ răng, như xảy ra trong xương. Lắng đọng và tái hấp thu xảy ra chủ yếu trong ngà răng và xi măng và một mức độ hạn chế trong men. Trong men, các quá trình này xảy ra chủ yếu là trao đổi khoáng với nước bọt thay vì với dịch cơ thể và khoang tủy.tốc độ tái hấp thu và lắng động các chất khoáng trong xi măng tương đương với trong xương huyệt răng, trong khi tỷ lệ lắng đọng và tái hấp thu các khoáng chất trong ngà răng chỉ là một phần ba của xương.

Xi măng có đặc điểm gần giống hệt với xương bình thường, trong đó có sự hiện diện của tạo cốt bào và hủy cốt bào, trong khi ngà răng không có những đặc điểm này, như đã giải thích trước đó. Sự khác biệt này chắc chắn giải thích sự khác biệt giữa tốc độ trao đổi khoáng

Tóm lại, sự trao đổi khoáng sản liên tục xảy ra trong ngà răng và xi măng răng, mặc dù cơ chế trao đổi này trong ngà răng là không rõ ràng. Tuy nhiên, men trao đổi khoáng rất chậm, vì vậy nó vẫn duy trì hầu hết lượng khoáng chất ban đầu của nó trong suốt cuộc đời.

Bài viết cùng chuyên mục

Hấp thu nước và các ion ở ruột non

Nước vận chuyển qua màng tế bào ruột bằng cách khuếch tán, sự khuếch tán này thường tuân theo áp lực thẩm thấu, khi nhũ trấp đủ loãng, nước được hấp thu qua niêm mạc ruột vào máu hầu như hoàn toàn bằng áp lực thẩm thấu.

Cảm giác: phân loại các loại cảm giác thân thể

Các cảm giác thân thể là các cơ chế thần kinh tập hợp tất cả những thông tin cảm giác từ mọi vị trí của cơ thể. Các cảm giác này khác với những cảm giác đặc biệt như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và cảm giác về sự cân bằng.

Điều soát kích thước đồng tử của mắt

Vai trò của phản xạ ánh sáng là để giúp cho mắt đáp ứng ngay lập tức với sự thay đổi cường độ ánh sáng. Giới hạn của đường kính đồng tử vào khoảng 1.5 milimet ở trạng thái co nhỏ nhất và 8 milimet ở trạng thái giãn rộng nhất.

Chức năng của tuyến tùng trong kiểm soát sinh sản theo mùa ở một số động vật

Tuyến tùng chỉ là một phần thoái hóa không có chức năng, nhưng một số phát hiện trong những năm trở lại đây cho thấy nó đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát hoạt động sinh dục và sinh sản.

Sự hình thành lưu thông và hấp thu dịch não tủy

Dịch được bài tiết từ não thất bên đầu tiên đến não thất ba, sau khi bổ sung thêm một lượng nhỏ dịch từ não thất ba, chảy xuống qua công Sylvius vào não thất bốn, nơi một lượng nhỏ dịch tiếp tục được bài tiết thêm.

Phản xạ nhĩ và động mạch phổi điều hòa huyết áp

Ở thành của tâm nhĩ và động mạch phổi có receptor căng gọi là receptor hạ áp, nó giống với thụ thể cảm nhận của động mạch hệ tuần hoàn lớn.

Tác dụng feedback của hormon giáp làm giảm bài tiết TSH của thùy trước tuyến yên

Để đạt được mức độ bài tiết lý tưởng, cơ chế feedback cụ thể tác dụng thông qua tuyến dưới đồi và thùy trước tuyến yên để kiểm soát tốc độ bài tiết của tuyến giáp.

Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường

Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.

Cơ chế chung của sự co cơ

Acetylcholine hoạt động trên một khu vực cục bộ của màng sợi cơ để mở các kênh cation có “cổng acetylcholine” thông qua các phân tử protein lơ lửng trong màng.

Hệ thống bạch huyết: vai trò chính trong điều hòa nồng độ protein, thể tích và áp suất dịch kẽ

Chức năng của hệ thống bạch huyết như một “cơ chế tràn” để nhận lại protein dư thừa và lượng nước thừa trong khoảng kẽ vào tuần hoàn chung.

Giai đoạn thể tích và áp lực của tuần hoàn động mạch và tĩnh mạch

Sự duy trì trương lực là một trong những cách hệ tuần hoàn tự động thích nghi trong thời gian khoảng vài phút đến vài giờ nếu lượng máu bị mất sau một xuất huyết nặng.

Cơ chế tự điều hòa bơm máu của tim: cơ chế frank starling

Tìm hiểu với các điều kiện khác nhau, lượng máu tim bơm đi mỗi phút thông thường được xác định hầu hết qua tốc độn dòng máu qua tim từ tĩnh mạch, đó là các tĩnh mạch trở về.

Hoạt động nhào trộn của đường tiêu hóa

Hoạt động nhào trộn có đặc điểm khác nhau ở những phần khác nhau của đường tiêu hóa. Ở một số đoạn, co bóp nhu động chủ yếu gây ra nhào trộn.

Vùng dưới đồi bài tiết GnRH kích thích thùy trước tuyến yên tiết FSH và LH

Trung tâm sản xuất GnRH ở vùng dưới đồi. Hoạt động thần kinh điều khiển sự chế tiết GnRH diễn ra tại vùng mediobasal hypothalamus, đặc biệt ở phần nhân cung của khu vực này.

Dịch não tủy và chức năng đệm của nó

Chức năng chính của dịch não tủy là lót đệm cho não trong hộp sọ cứng. Não và dịch não tủy có cùng trọng trượng riêng (chỉ khác biệt 4%), do đo não nổi trong dịch não tủy.

Vai trò của các nhân não và tiền đình: nâng đỡ cơ thể chống lại trọng lực

Các nhân lưới được chia làm 2 nhóm chính: các nhân lưới ở cầu não, nằm ở phía sau bên của cầu não và kéo dài tới hành não, các nhân lưới ở hành não, kéo dài suốt toàn bộ hành não, nằm ở cạnh đường giữa.

Giải phẫu và sinh lý cơ quan sinh dục nam

Hai túi tinh nằm ở 2 bên tuyến tiền liệt, dẫn tinh trùng vào tuyến tiền liệt và tận cùng ở bóng tinh. Niệu quản là nơi cuối cùng dẫn tinh trùng từ tinh hoàn ra bên ngoài.

Phản xạ tư thế: dáng đi ở tủy sống

Ở động vật có xương sống, khi cơ thể bị ngả về một bên thì sẽ xuất hiện các động tác không đồng vận để cố gắng giúp nó đứng thẳng dậy. Phản xạ này được gọi là phản xạ đứng dậy tuỷ sống.

Chức năng của Lipoproteins trong vận chuyển Cholesterol và Phospholipids

Hầu hết các lipoprotein được hình thành ở gan, đó cũng là nơi mà hầu hết các cholesterol huyết tương, phospholipid và triglycerides được tổng hợp.

So sánh tế bào trong cơ thể người với những dạng sống dưới tế bào

Những chất hóa học bên cạnh acid nucleic và những protein đơn giản trở thành những phần của sinh vật, và những chức năng chuyên biệt bắt đầu phát triển ở nhiều phần khác nhau của virus.

Trạm thần kinh: sự phân kỳ của các tín hiệu đi qua

Sự phân kỳ khuếch đại hiểu đơn giản là các tín hiệu đầu vào lan truyền đến một số lượng nơ-ron lớn hơn khi nó đi qua các cấp nơ-ron liên tiếp trong con đường của nó.

Canxi và photphatase trong dịch ngoại bào và huyết tương

Những tế bào dễ bị kích thích rất nhạy cảm với sự thay đổi của nồng độ ion canxi, nếu tăng quá ngưỡng bình thường gây giảm hoạt động của hệ thần kinh; ngược lại, giảm nồng độ canxi trong máu (hạ canxi máu) làm cho các tế bào thần kinh trở nên dễ bị kích thích hơn.

Các con đường gian nút và liên nhĩ: dẫn truyền xung động tim qua tâm nhĩ

Điện thế hoạt động bắt nguồn từ nút xoang đi ra ngoài vào trong các sợi cơ tâm nhĩ. Bằng cách này, điện thế hành động lan truyền qua toàn bộ khối cơ nhĩ và, cuối cùng, đến nút A-V.

Dịch lọc qua mao mạch: áp lực thủy tĩnh, áp lực keo huyết tương và hệ số lọc mao mạch

Áp lực thủy tĩnh có xu hướng để đẩy dịch và các chất hòa tan qua các lỗ mao mạch vào khoảng kẽ. Ngược lại, áp lực thẩm thấu có xu hướng gây ra thẩm thấu từ các khoảng kẽ vào máu.

Điều hòa bào tiết dịch tụy

Hai yếu tố acetylcholine và cholecystokinin, kích thích tế bào tiểu thùy của tuyến tụy, gây sản xuất một lượng lớn enzyme tiêu hóa của tuyến tụy và một lượng nhỏ nước và điện giải được bài tiết cùng.