- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Cấu tạo và chức năng các thành phần của răng
Cấu tạo và chức năng các thành phần của răng
Cấu trúc tinh thể của muối làm cho men răng vô cùng cứng, cứng hơn nhiều so với ngà răng. Ngoài ra, lưới protein đặc biệt, mặc dù chỉ chiếm khoảng 1 phần trăm khối lượng men răng, nhưng làm cho răng có thể kháng axit, enzym.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hình là mặt cắt đứng dọc của răng, mô tả các bộ phận chính của răng:thân, men, ngà răng, xi măng, và tủy.Răng cũng có thể được chia thành thân, đó là phần nhô ra từ lợi vào miệng, và chân, đó là phần bên trong hốc xương hàm. Phần cổ giữa thân và chân răng được bao quanh bởi lợi được gọi là cổ.

Hình. Cấu tạo của răng
Men
Mặt ngoài răng được bao phủ bởi một lớp men răng được hình thành trước khi mọc răng bởi các tế bào biểu mô đặc biệt gọi là ameloblasts. Khi răng đã mọc, men không được hình thành nữa. Men gồm dày đặccác tinh thể hydroxyapatite lớn cùng cacbonat hấp phụ, magiê, natri, kali, và các ion khác được nhúng trong một lưới các thành phần protein mạnh mẽ và không tan tương tự về tính chất vật lý (nhưng không hóa học giống hệt nhau) với keratin của mái tóc.
Cấu trúc tinh thể của muối làm cho men răng vô cùng cứng, cứng hơn nhiều so với ngà răng. Ngoài ra, lưới protein đặc biệt, mặc dù chỉ chiếm khoảng 1 phần trăm khối lượng men răng, nhưng làm cho răng có thể kháng axit, enzym và các tác nhân ăn mòn khác men do protein này là một trong những protein không hòa tan và có độ bền nhất.
Ngà
Phần lớn của răng là ngà răng,là một cấu trúc xương khỏe. Ngà răng được tạo thành chủ yếu của các tinh thể hydroxyapatite tương tự như trong xương nhưng đặc hơn. Tinh thể được nhúng trong 1 mạng lưới các sợi collagen nói cách khác, những thành phần chủ yếu của men răng cũng giống xương. Sự khác biệt chính là ở tổ chức mô học vì ngà răng không chứa bất kỳ tạo cốt bào, cốt bào, hủy cốt bào, hoặc không gian cho các mạch máu hay dây thần kinh. Thay vào đó, nó được lắng đọng và được nuôi dưỡng bởi một lớp tế bào gọi là odontoblasts,lớp ở bên trong dọc theo khoang tủy.
Muối canxi trong ngà răng làm cho nó cực kỳ bền với lực siết ép, và các thành collagen giúp chống lại và bền lực ép có thể xảy ra khi răng va đập với các vật thể rắn.
Xi măng
Xi măng là một chất dạng xương được tiết ra bởi các tế bào của màng huyệt răng (periodontal), lát ở huyệt răng. các sợi collagen vượt trực tiếp qua xương hàm, qua màng huyệt răng, và sau đó vào xi măng. Các sợi collagen và xi măng giữ răng chắc chắn tại chỗ. Khi răng tiếp xúc với lực kéo quá mạnh, lớp xi măng trở nên dày hơn và mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, nó cũng tăng độ dày và sức mạnh theo tuổi, giúp răng trở nên chắc chăn hơn n trong hàm ở tuổi trưởng thành và sau đó.
Tủy
Khoang tùy của mỗi răng chứ tủy răng ở trong, trong đó gồm mô liên kết chưaa dây thần kinh, mạch máu, hệ bạch huyết và tế bào họ lympho. Lótkhoang tủy là tế bào odontoblasts, trong suốt những năm hình thành của răng, ngà răng chiếm nhiều hơn và nhiều hơn nữa trên khoang tủy, làm cho nó nhỏ hơn. Sau 1 thời gian, ngà ngừng phát triển và khoang tủy chủ yếu vẫn không đổi trong kích thước. Tuy nhiên, các odontoblasts vẫn hoạt động,tạo ra các ống ngà nhỏ thâm nhập ngà răng; Nó có tác dụng quan trọng trong việc trao đổi canxi, phosphate, và các khoáng chất khác với ngà.
Bộ răng
Con người và hầu hết động vật có vú khác phát triển hai bộ răng trong suốt cả cuộc đời. Hàm răng đầu tiên được gọi là răng rụng lá, hoặc răng sữa, có 20 chiếc ở người. Răng mọc bắt đầu giữa tháng bảy và 24 tháng, và kéo dài cho đến 6 hoặc 13 tuổi. Khi 1 chiếc răng sữa rụng, Răng vĩnh viễn thay thế nó và thêm 8-12 răng hàm xuất hiện phía sau trong hàm, nâng tổng số răng vĩnh viễn 28-32, tùy thuộc vào việc có 4 răng khôn mọc không,điều không xảy ra trong tất cả mọi người.

Hình. A. răng nguyên thủy; B. phát triển răng; C. răng sữa.
Hình thành của răng
Hình cho thấy sự hình thành và mọc của răng. Hình miêu tả sự tự cuộn của biểu mô miệng vào phiến lá nha khoa, dẫn đến hình thành một cơ quan tạo răng (toothproducing). Các tế bào biểu mô trên tạo ra ameloblasts, cái mà sau này tạo thành lớp men bên ngoài của răng. Các tế bào biểu dưới cuộn vào giữa các răng để tạo thành khoang tủy và và odontoblasts tiết ra ngà. Như vậy, men được hình thành ở bên ngoài của răng và ngà răng được hình thành ở bên trong, tạo ra một chiếc răng đầu, như thể hiện trong hình.
Sự mọc
Trong suốt thời niên thiếu, răng bắt đầu nhô lên từ xương thông qua các biểu mô vào miệng. Nguyên nhân của sự “mọc” là không rõ, mặc dù co nhiều giả thuyết đã được đưa ra trong một nỗ lực để giải thích hiện tượng này. Thuyết có khả đưuọc ủng hộ nhất là sư tăng trưởng của chân và xương bên dưới răng dần dần đẩy răng lên trên.
Sự phát triển của răng vĩnh viễn
Khi phôi thai, một cơ quan tạo răng (toothforming) cũng phát triển trong lá nha khoa cho mỗi răng vĩnh viễn, nắm vai trò quan trọng khi răng sữa đã rụng hết. những cơ quan tạo răng (toothforming ) này từ từ hình thành răng vĩnh viễn trong suốt 6-20 năm đầu đời. Khi mỗi răng vĩnh viễn hình thành đầy đủ, nó, giống như răng sữa, đẩy ra bên ngoài qua các xương.
Khi làm như vậy, nó làm mòn chân răng sữa và cuối cùng làm nó lỏng lẽo và gẫy. Không lâu sau đó, các răng vĩnh viễn mọc để chiếm chỗ này.
Các yếu tố chuyển hóa ảnh hưởng sự phát triển của răng
Tốc độ của mọc răng có thể được đẩy nhanh bằng cả hai hocmon tuyến giáp và tăng trưởng. Ngoài ra, sự lắng đọng của các muối trong dạng sớm của răng ảnh hưởng đáng kể bởi các yếu tố khác nhau của quá trình chuyển hóa, chẳng hạn như sự sẵn co của canxi và phốt phát trong chế độ ăn uống, lượng vitamin D, và tốc độ tiết PTH. Khi tất cả những yếu tố này là bình thường, ngà răng và men răng sẽ tương ứng khỏe mạnh, nhưng khi thiếu, quá trình canxi hóa của răng cũng có thể bị lỗi và răng sẽ bất bất thường trong suốt cuộc đời.
Trao đổi khoáng trong răng
Muối, giống như xương, được cấu tạo của hydroxyapatite với cacbonat hấp thụ và các cation khác nhau liên kết với nhau trong một chất kết tinh cứng. Ngoài ra, muối mới liên tục được lắng động khi muối cũ tái hấp thu từ răng, như xảy ra trong xương. Lắng đọng và tái hấp thu xảy ra chủ yếu trong ngà răng và xi măng và một mức độ hạn chế trong men. Trong men, các quá trình này xảy ra chủ yếu là trao đổi khoáng với nước bọt thay vì với dịch cơ thể và khoang tủy.tốc độ tái hấp thu và lắng động các chất khoáng trong xi măng tương đương với trong xương huyệt răng, trong khi tỷ lệ lắng đọng và tái hấp thu các khoáng chất trong ngà răng chỉ là một phần ba của xương.
Xi măng có đặc điểm gần giống hệt với xương bình thường, trong đó có sự hiện diện của tạo cốt bào và hủy cốt bào, trong khi ngà răng không có những đặc điểm này, như đã giải thích trước đó. Sự khác biệt này chắc chắn giải thích sự khác biệt giữa tốc độ trao đổi khoáng
Tóm lại, sự trao đổi khoáng sản liên tục xảy ra trong ngà răng và xi măng răng, mặc dù cơ chế trao đổi này trong ngà răng là không rõ ràng. Tuy nhiên, men trao đổi khoáng rất chậm, vì vậy nó vẫn duy trì hầu hết lượng khoáng chất ban đầu của nó trong suốt cuộc đời.
Bài viết cùng chuyên mục
Nguyên nhân gây ngoại tâm thu: rối loạn nhịp tim
Ngoại tâm thu thường xuyên gặp trong thông buồng tim, ngoại tâm thu cũng xảy ra khi đứa catheter vào trong buồng thất phải và chén ép nội tâm mạc.
Dịch ngoại bào: môi trường trong cơ thể
Dịch ngoại bào và máu luôn có quá trình trao đổi qua lại với nhau nhờ quá trình khuếch tán dịch và chất tan qua thành các mao mạch, dịch ngoại bào chứa các ion và các chất dinh dưỡng và là môi trường.
Giải phẫu hệ động mạch cấp máu đường tiêu hóa
Cấu trúc đặc biệt của hệ thống mạch máu ở nhung mao ruột bao gồm các động mạch và tĩnh mạch nhỏ được kết nối với nhau bởi hệ thống mao mạch nhiều vòng.
Đại cương sinh lý tim mạch
Vòng tiểu tuần hoàn mang máu tĩnh mạch từ tim phải theo động mạch phổi lên phổi, ở mao mạch phổi, khí cacbonic được thải ra ngoài và máu nhận oxy để trở thành máu động mạch, theo tĩnh mạch phổi về tim trái, tiếp đó bắt đầu một chu trình tương tự qua vòng đại tuần hoàn.
Sự xâm nhập tinh trùng vào trứng: các enzyme thể đỉnh và phản ứng thể đỉnh
Chỉ vài phút sau khi tinh trùng đầu tiên xâm nhập qua lớp màng sáng, các ion calci xâm nhập vào bên trong, tế bào phát động phản ứn g vỏ đổ các chất đặc biệt vào xoang quanh noãn.
Vai trò của CO2 và Ion H+ điều hòa hô hấp: điều hòa hóa học trung tâm hô hấp
Nồng độ CO2 hay ion H+ quá cao trong máu tác động trực tiếp vào trung tâm hô hấp, làm tăng đáng kể lực mạnh của các tín hiệu vận động hít vào và thở ra tới các cơ hô hấp.
U đảo tụy: tăng tiết shock insulin và hạ đường huyết
Ở những bệnh nhân có khối u tiết insulin hoặc ở những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, bệnh nhân dùng quá nhiều insulin cho chính họ, các hội chứng đó được gọi là sốc insulin.
Sợi thần kinh: sự tương quan về trạng thái
Một số tế bào thần kinh trong hệ thần kinh trung ương hoạt động liên tục vì ngay cả trạng thái kích thích bình thường cũng trên ngưỡng cho phép.
Các đặc trưng của hệ thống điều hòa cơ thể
Một yếu tố nào đó quá tăng hoặc quá giảm, hệ thống điều khiển sẽ thực hiện cơ chế điều hòa đưa nó trở về giá trị bình thường nhờ hàng loạt các biến đổi trong cơ thể, cũng vì thế mà hằng tính nội môi luôn được giữ ổn định.
Cơ chế tự điều hòa bơm máu của tim: cơ chế frank starling
Tìm hiểu với các điều kiện khác nhau, lượng máu tim bơm đi mỗi phút thông thường được xác định hầu hết qua tốc độn dòng máu qua tim từ tĩnh mạch, đó là các tĩnh mạch trở về.
Dẫn truyền âm thanh từ màng nhĩ đến ốc tai: phối hợp trở kháng bởi xương con
Các xương con của tai giữa được treo bởi các dây chằng trong đó xương búa và xương đe kết hợp để hoạt động như một đòn bẩy, điểm tựa của nó ở ranh giới của màng nhĩ.
Các chuyển đạo trước tim (chuyển đạo ngực): các chuyển đạo điện tâm đồ
ECG của tim người khỏe mạnh như ghi lại từ sáu chuyển đạo ngực tiêu chuẩn. Vì các mặt của tim là gần với thành ngực, mỗi chuyển đạo ngực ghi lại chủ yếu là điện thế của hệ cơ tim ngay bên dưới điện cực.
Phế nang: tốc độ thông khí của phế nang
Một trong những chức năng quan trọng của đường hô hấp là giữ chúng luôn mở và cho phép không khí đi lại đến phế nang dễ dàng. Để giữ khí quản khỏi xẹp, nhờ có sụn nhẫn.
Các con đường thần kinh để sợi cảm giác đi tới vỏ não vận động
Khi tiếp nhận các thông tin cảm giác, vỏ não vận động hoạt động cùng với nhân nền và tiểu não kích hoạt một chuỗi đáp ứng vận động phù hợp. Các con đường quan trọng để các sợi cảm giác tới vỏ não vận động.
Hiệu suất hoạt động trong suốt sự co cơ
Năng lượng cần thiết để thực hiện hoạt động được bắt nguồn từ các phản ứng hóa học trong các tế bào cơ trong khi co, như mô tả trong các phần sau.
Nhĩ thu và thất thu với các sóng: điện tâm đồ bình thường
Trước khi co bóp của cơ có thể xảy ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ. Sóng P xảy ra vào lúc bắt đầu của co bóp của tâm nhĩ, và phức bộ QRS của các sóng xảy ra vào lúc bắt đầu co bóp của tâm thất.
Sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em
Phát triển hành vì chủ yếu liên quan đến sự hoàn thiện của hệ thần kinh. Nó khó để phân biệt giữa hoàn thiện cấu trúc giải phẫu của hệ thống thần kinh hay do giáo dục.
Dẫn truyền các tín hiệu vận động từ vỏ não tới các cơ
Sau khi rời vỏ não, bó này đi qua trụ sau của bao trong (giữa nhân đuôi và nhân bèo sẫm của nhân nền) và sau đó đi xuống thân não, tạo nên bó tháp ở hành não.
Hệ thống Purkinje: vai trò gây ra co bóp đồng bộ của cơ tâm thất
Khi xung động đi đến tận cùng của các sợi Purkinje, nó được truyền qua khối cơ của tâm thất bởi chính các sợi cơ của tâm thất. Vận tốc dẫn truyền bây giờ chỉ 0,3 - 0,5m/s, bằng 1/6 trong các sợi Purkinje.
Vận chuyển Glucose trong cơ thể qua màng tế bào
Glucose có thể được vận chuyển từ một phía của màng tế bào sang phía bên kia, sau đó được giải phóng, glucose sẽ được vận chuyển từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp hơn là theo chiều ngược lại.
Chức năng và ảnh hưởng của estrogen lên đặc tính sinh dục tiên phát và thứ phát
Trong thời thơ ấu, estrogen chỉ được tiết với một lượng rất nhỏ, nhưng đến giai đoạn dậy thì, lượng estrogen được tiết ra dưới sự kích thích của hormone điều hòa tuyến sinh dục của tuyến yên tăng lên trên 20 lần.
Kiểm soát tích cực lưu lượng máu cục bộ
Cơ chế thay đổi chuyển hóa mô hoặc lượng oxy máu làm thay đổi dòng máu vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng 2 giả thuyết chính này đến nay đã được đưa ra: giả thuyết co mạch và giả thuyêt về nhu cầu oxy.
Các hệ thống kiểm soát Cortisol
Feedback của cortisol cho cả vùng dưới đồi và thùy trước tuyến yên cũng xảy ra để làm giảm nồng độ cortisol trong huyết tương ở những lần cơ thể không bị stress.
Giải phẫu và chức năng sinh lý của vỏ não
Cấu trúc mô học điển hình của bề mặt vỏ não, với các lớp liên tiếp các loại tế bào thần kinh khác nhau. Hầu hết các tế bào thần kinh chia làm ba loại: tế bào dạng hạt, tế bào hình thoi, và tế bào hình tháp.
Sự đào thải các hormone khỏi hệ tuần hoàn
Có hai yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ của các hormone trong máu, yếu tố là mức độ bài tiết hormone vào máu và yếu tố mức độ đào thải hormone ra khỏi máu.
