- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Ảnh hưởng của hormon tuyến giáp đến chức năng cụ thể của cơ thể
Ảnh hưởng của hormon tuyến giáp đến chức năng cụ thể của cơ thể
Tác dụng lên chuyển hóa carbohydrate, chuyển hóa chất béo, mỡ trong máu và trong gan, nhu cầu vitamin, chuyển hóa cơ sở, trọng lượng cơ thể, dòng máu và lưu lượng tim.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tác dụng lên chuyển hóa carbohydrate
Hormon tuyến giáp kích thích tất cả các yếu tố liên quan chuyển hóa carbohydrate, bao gồm tăng khả năng thu nhận glucose tế bào, tăng phân giải glycogen, tăng tạo đường mới, tăng hấp thu vào ống tiêu hóa, và tăng bài tiết insulin nó là kết quả ảnh hưởng thứ phát trong chuyển hóa carbohydrate. Tất cả những ảnh hưởng này có thể giải thích dựa trên khả năng làm tăng cường chuyển các enzym hormon tuyến giáp.
Tác dụng lên chuyển hóa chất béo
Tất cả các chuyển hóa trong chất béo đều chịu ảnh hưởng của hormon tuyến giáp. Đặc biệt, chất béo được huy động nhanh chóng từ các mô mỡ, làm giảm chất béo dự trữ trong cơ thể tới mức lớn hơn bất kỳ mô khác. Huy động lipid từ mô mỡ cũng tăng acid béo tự do trong huyết tương và cũng tăng cường oxy hóa acid béo trong tế bào.
Tác dụng lên mỡ trong máu và trong gan
Tăng hormon tuyến giáp làm giảm nồng độ cholesterol, phospholipids, và triglycerides trong huyết tương, mặc dù nó làm tăng acid béo tự do. Ngược lại giảm tiết tuyến giáp nhiều làm tăng nồng độ cholesterol, phosholipid và triglycerid trong huyết tương và lắng động quá mức chất béo trong gan. Tăng nồng độ cholesterol máu kéo dài do nhược năng tuyến giáp thường liên quan với xơ vữa động mạch nặng.
Một trong những cơ chế mà hormon tuyến giáp làm giảm nồng độ cholesterol trong huyết tương là tăng bài tiết cholesterol qua đường mật và kết quả mất theo phân. Một cơ chế có thể tăng tiết cholesterol là hormon giáp là tăng số lượng recepter gắn đặc hiệu với protein tỷ trọng thấp trên tế bào gan, làm loại bỏ nhanh chóng cholesterol vào trong lipoprotein.
Tăng nhu cầu vitamin
Do hormon tuyến giáp làm tăng rất nhiều enzym của cơ thể và các vitamin là cần thiết cho các enzym hoặc coenzym, nên hormon tuyến giáp làm tăng nhu cầu các vitamin. Vì vậy, sự thiếu hụt tương đối vitamin có thể xảy ra khi quá nhiều hormon tuyến giáp được bài tiết, trừ khi tại cùng 1 thời gian, số lượng vitamin mà cần tăng lên là sẵn có để dùng.
Tăng mức độ chuyển hóa cơ sở
Bởi vì hormon tuyến giáp làm tăng chuyển hóa của hầu hết các tế bào của cơ thể nên quá nhiều hormon có thể tăng mức độ chuyển hóa cơ sở từ 60-100 % trên mức bình thường.Ngược lại, khi hormon không được sản xuất, mức chuyển hóa cơ sở giảm xuống bằng một nửa bình thường. Mối tương quan giữa dự trữ hormon tuyến giáp hằng ngày và mức độ chuyển hóa cơ sở. Lượng vô cùng hormon tuyến giáp cần phải có để gây ra mức chuyển hóa cơ sở cao.

Hình. Mối liên hệ gần đúng giữa tốc độ tiết hormone tuyến giáp (T4 và T3) hàng ngày với phần trăm thay đổi trong tốc độ trao đổi chất cơ bản so với bình thường.
Giảm trọng lượng cơ thể
Tăng một lượng lớn hormon tuyến giáp hầu hết luôn giảm trọng lượng cơ thể, và giảm một lượng lớn hormon giáp hầu hết luôn làm giảm trọng lượng cơ thể, tuy nhiên, tác dụng này không luôn luôn xảy ra bởi hormon giáp cũng làm tăng sự ngon miệng, có thể cân bằng với mức độ chuyển hóa.
Tăng dòng máu và lưu lượng tim
Tăng chuyển hóa ở mô làm cho mức sử dụng oxy nhiều hơn bình thường và giải phóng các sản phẩm chuyển hóa cuối cùng từ mô nhiều hơn bình thường. Tác dụng này gây ra giãn mạch ở hầu hết các mô của cơ thể, vì vậy làm tăng tuần hoàn máu. Tỉ lệ dòng máu ở da đặc biệt tăng bởi tăng nhu cầu thải nhiệt từ cơ thể. Kết quả là khi lượng máu tăng thì lưu lượng tim cũng tăng, có khi tăng lên 60% hoặc hơn so với bình thường khi có quá nhiều hormon tuyến giáp và giảm xuống chỉ còn 50% bình thường trong nhược giáp nặng.
Tăng nhịp tim
Hormon tuyến giáp có tác dụng tăng nhịp tim rõ hơn là tăng lưu lượng tim. Bởi vậy, hormon giáp dường như tác dụng trực tiếp lên tính dễ bị kích thích của tim, tăng nhịp tim. Tác dụng này đăc biệt quan trọng bởi nhịp tim là 1 dấu hiệu quan trọng mà các nhà lâm sàng hay dùng để đánh giá sự bài tiết hormon giáp là quá mức hay giảm đi.
Tăng sức co bóp của tim
Sự hoạt động các enzym tăng lên gây ra bởi tăng sản xuất hormon giáp dường như làm tăng sức co bóp của tim khi chỉ một lượng thừa nhẹ hormon giáp được bài tiết. Tác dụng này tương tự như tăng sức co bóp của tim khi sốt nhẹ và khi tập luyện. Tuy nhiên khi hormon giáp tăng lên rõ rệt, sức co bóp cơ tim giảm đi bởi tăng thoái hóa protein dài ngày. Thực vậy, một vài bệnh nhân nhiễm độc giáp nặng chết vì suy tim mất bù và tăng sức tải của tim bởi tăng cung lượng tim.
Huyết áp bình thường
Huyết áp trung bình thường vẫn bình thường sau tiêm hormon tuyến giáp. Bởi tăng lưu lượng máu qua mô giữa các nhịp tim, áp lực mạch thường tăng lên, với áp lực tâm thu tăng lên 10-15 mmHg trong cường giáp và áp lực tâm trương giảm tương ứng.
Tăng hô hấp
Tăng mức chuyển hóa, tăng sử dụng oxy và hình thành carbon dioxide, những tác dụng này kích thích mọi cơ chế mà làm tăng tần số và cường độ hô hấp.
Tăng nhu động đường tiêu hóa
Tăng sự ngon miệng và thức ăn hormon giáp vừa tăng tiết dịch tiêu hóa, vừa làm tăng nhu động đường tiêu hóa. Vì vậy cường giáp thường dẫn đến tiêu chảy, trong khi thiếu hụt hormon giáp có thể gây táo bón.
Tác dụng lên hệ thần kinh trung ương
Nhìn chung hormon tuyến giáp tăng nhanh trong quá trình hoạt động của não, mặc dù quá trình này có thể bị phân tách ra; ngược lại, thiếu hụt hormon tuyến giáp làm giảm nhanh hoạt động của não. Một người ưu năng tuyến giáp sẽ rất dễ kích thích và có khuynh hướng rối loạn thần kinh chức năng, như là lo lắng quá mức, hoang tưởng.
Ảnh hưởng lên chức năng cơ
Tăng nhẹ hormon tuyến giáp thường làm cơ tăng phản ứng, nhưng khi lượng hormon được bài tiết quá nhiều, cơ trở nên yếu vì tăng thoái hóa protein của cơ. Mặt khác nếu thiếu hormon giáp cơ trở nên chậm chạp nhất là giãn ra chậm sau khi co.
Run cơ
Một trong những dấu hiệu đặc trưng của ưu năng tuyến giáp là run cơ, Triệu chứng này không phải là run cơ biên độ lớn như trong bệnh Parkinson hoặc khi một người rùng mình bởi nó xảy ra nhanh với tần số 10-15 lần /giây. Run cơ có thể được quan sát dễ dàng bằng cách đặt một tờ giấy lên các ngón tay duỗi thẳng và chú ý mức độ rung của tờ giấy. Kiểu run cơ này được cho rằng là do tăng hoạt hóa các synap thần kinh ở vùng tủy sống điều hòa trương lực cơ. Run là một dấu hiêu quan trọng để đánh giá mức độ tác dụng của hormon tuyến giáp đối với hệ thần kinh trung ương.
Ảnh hưởng đến giấc ngủ
Bởi tác dụng của hormon giáp lên hệ thống cơ và hệ thần kinh trung ương, một người cường giáp thường có cảm giác mệt mỏi liên tục, nhưng bởi tác dụng dễ kích thích của hormon giáp lên synap nên gây khó ngủ. Ngược lại, trạng thái ngủ gà là đặc trưng của nhược giáp, có khi ngủ 12 -14 tiếng/1 ngày.
Tác dụng lên các tuyến nội tiết khác
Tăng hormon giáp làm tăng mức độ bài tiết của một vài tuyến nội tiết khác, mà còn tăng nhu cầu hormon của mô.Ví dụ, tăng tiết thyroxine tăng mức độ chuyển hóa glucose ở hầu hết mọi nơi trong cơ thể và vì thế gây ra tăng bài tiết insulin tương ứng bởi tụy. Cũng thế, hormon giáp làm tăng nhiều hoạt động chuyển hóa liên quan đến hình thành xương và hệ quả là tăng hormon cận giáp. Hormon tuyến giáp cũng tăng glucocorticoids tuyến thượng thận bị bất hoạt bởi gan.
Mức độ tăng tiết không hoạt động dẫn đến feedback tăng sản xuất hormon adreno-corticotropic bởi thùy trước tuyến yên và vì vậy, tăng bài tiết glucocorticoid bởi tuyến thượng thận.
Tác dụng của hormon giáp lên chức năng sinh dục
Để chức năng sinh dục bình thường, bài tiết của tuyến giáp cần trong khoảng bình thường. Ở nam giới, thiếu hormon giáp có thể mất dục tính, bài tiết quá nhiều hormon thỉnh thoảng gây ra bất lực.
Ở phụ nữ, thiếu hormon giáp thường gây ra băng kinh, đa kinh, tương ứng là chảy máu kinh quá nhiều và chảy máu kinh thường xuyên. Tuy nhiên, kỳ lạ là có những phụ nữ khác thiếu hormon giáp có thể kinh nguyệt không đều và đôi khi thậm chí là vô kinh.
Suy giáp ở phụ nữ, cũng như ở nam giới, có thể dẫn đến giảm mạnh ham muốn tình dục. Ở phụ nữ cường giáp, kinh thưa (giảm đáng kể chảy máu) là thường gặp và đôi khi xảy ra vô kinh.
Hoạt động của hormon giáp lên các tuyến sinh dục không thể xác định được chức năng rõ ràng nhưng có lẽ là kết quả của một sự kết hợp tác dụng chuyển hóa trực tiếp lên tuyến sinh dục, cũng như tác dụng feedback kích thích hoặc ức chế thông qua hormon thùy trước tuyến yên mà kiểm soát chức năng sinh dục.
Bài viết cùng chuyên mục
Tính nhịp điệu của mô dễ bị kích thích phóng điện lặp lại
Các dòng chảy của các ion kali tăng lên mang số lượng lớn của các điện tích dương ra bên ngoài của màng tế bào, để lại một lượng đáng kể ion âm hơn trong tế bào xơ hơn trường hợp khác.
Vùng vận động bổ xung: chức năng vận động của vỏ não và thân não
Vùng vận động bổ sung có bản đồ hình chiếu khác nữa để chi phối chức năng vận động. Vùng này nằm chủ yếu ở khe dọc giữa nhưng kéo dài vài cm lên trên vùng vỏ não trán trên.
Phương pháp đo tỷ lệ chuyển hoá của cơ thể
Để xác định tỷ lệ chuyển hoá bằng cách đo trực tiếp, sử dụng một calorimeter, được đo sẽ ở trong một buồng kín và bị cô lập để không một lượng nhiệt nào có thể thoát ra ngoài.
Ảnh hưởng của ion kali và canxi trong hoạt động của tim
Khi có nồng độ cao kali trong dịch ngoại bào sẽ một phần khử cực màng tế bào, làm điện thế màng bớt âm. Khi điện thế màng giảm, cường độ điện thế hoạt đọng cũng giảm, làm cho sự co bóp cơ tim yếu dần.
Các chất giải phóng từ tế bào hình sao điều hòa lưu lượng máu não
Các chất trung gian chưa được biết rõ, nitric oxit, các chất chuyển hóa của acid arachidonic, ion kali, adenosin và các chất khác tạo ra bởi tế bào hình sao dưới kích thích của các neuron gần kề là các chất trung gian giãn mạch quan trọng.
Tủy sống: tổ chức hoạt động chức năng vận động
Mỗi đốt tủy có hàng triệu neurons trong chất xám. Đặt sang một bên các neuron trung gian truyền tín hiệu cảm giác, chúng ta có 2 loại neurons còn lại: neurons vận động tại sừng trước tủy sống và các neurons liên hợp.
Vai trò và chức năng của Protein huyết tương
Proteins huyết tương là một nguồn amio acid của mô, khi các mô cạn kiệt protein, các protein huyết tương có thể hoạt động như một nguồn thay thế nhanh chóng.
Glycogen được dự trữ tại gan và cơ trong cơ thể
Tất cả các tế bào đều có khả năng dự trữ glycogen, một số tế bào có khả năng dự trữ số lượng lớn hơn, tế bào gan dự trữ 5 đến 8% khối lượng dưới dạng glycogen, và tế bào cơ, có thể dự trữ 1 đến 3% glycogen.
Hô hấp trong tập luyện thể thao
Có một mối quan hệ tuyến tính. Cả tiêu thụ oxy và tổng thông khí phổi tăng gấp khoảng 20 lần từ trạng thái nghỉ ngơi và cường độ tập luyện tối đa ở các vận động viên được tập luyện tốt.
Vòng phản xạ thần kinh: tín hiệu đầu ra liên tục
Các nơ-ron, giống các mô bị kích thích khác, phóng xung lặp đi lặp lại nếu mức điện thế màng kích thích tăng lên trên một ngưỡng nào đó. Điện thế màng của nhiều nơ-ron bình thường vẫn cao đủ để khiến chúng phóng xung liên tục.
Sự bài tiết ở ruột non và chất nhầy của tuyến brunner ở tá tràng
Hoạt động của chất nhày được bài tiết bởi tuyến Brunner là để bảo vệ thành tá tràng khỏi sự phân giải của dịch vị chứa acid được đưa đến từ dạ dày.
Tác dụng của corticoid lên chuyển hóa protein
Một tác dụng chính của corticoid lên hệ thống chuyển hóa của cơ thể làm giảm dự trữ protein trong tất cả các tế bào của cơ thể ngoại trừ các tế bào gan.
Ảnh hưởng của insulin lên chuyển hóa carbohydrat
Tác dụng của insulin trong việc tăng cường nồng độ glucose bên trong tế bào cơ, trong trường hợp không có insulin, nồng độ glucose nội bào vẫn gần bằng không, mặc dù nồng độ glucose ngoại bào cao.
Chức năng của não và giao tiếp - ngôn ngữ vào và ngôn ngữ ra
Dưới sự hỗ trợ của bản đồ giải phẫu đường đi thần kinh, chức năng của vỏ não trong giao tiếp. Từ đây chúng ta sé thấy nguyên tắc của phân tích cảm giác và điều khiển vận động được thực hiện như thế nào.
Kích thích cảm giác: sự phiên giải cường độ
Khi giải thích từng phần của những kết quả này, biểu diễn mối liên quan của điện thế nhận cảm tạo ra bởi tiểu thể Pacinian với cường độ của các kích thích cảm giác.
Tính chất hóa học của các hormone sinh dục
Cả estrogen và progesterone đều được vận chuyển trong máu nhờ albumin huyết tương và với các globulin gắn đặc hiệu. Sự liên kết giữa hai hormone này với protein huyết tương đủ lỏng lẻo để chúng nhanh chóng được hấp thu.
Điều hòa vận động: vai trò của suốt cơ
Mỗi suốt cơ dài từ 3-10 mm. Chúng được tạo thành từ khoảng 3-12 các sợi cơ vẫn rất mảnh gọi là sợi nội suốt, nhọn ở 2 đầu và được gắn vào lưới polysaccarid ở quanh các sợi lớn hơn gọi là sợi ngoại suốt.
Chu chuyển của tim
Tâm nhĩ hoạt động như một bơm khởi đầu cho tâm thất, và tâm thất lần lượt cung cấp nguồn năng lượng chính cho sự vận chuyển máu qua hệ thống mạch trong cơ thể.
Tiêu hóa hấp thu và chuyển hóa năng lượng của thức ăn và chất dinh dưỡng
Thông thường tỉ lệ chuyển hóa của trẻ sơ sinh so với trọng lượng cơ thể gấp đôi người lớn, chúng giải thích cho thực tế rằng hiệu suất của tim và thể tích hô hấp trong một phút gấp đôi người lớn so với trọng lượng cơ thể.
Tiểu thể Pacinian: điện thế nhận cảm và ví dụ về chức năng của receptor
Tiểu thể Pacinian có một sợi thần kinh trung tâm kéo dài suốt lõi tiểu thể. Bao quanh sợi thần kinh trung tâm này là các lớp vỏ bọc khác nhau xếp đồng tâm, và do vậy, sự đè ép ở bất kì vị trí nào bên ngoài tiểu thể sẽ kéo giãn.
Giải phẫu hệ động mạch cấp máu đường tiêu hóa
Cấu trúc đặc biệt của hệ thống mạch máu ở nhung mao ruột bao gồm các động mạch và tĩnh mạch nhỏ được kết nối với nhau bởi hệ thống mao mạch nhiều vòng.
Glucagon và tác dụng lên chuyển hóa glucose
Các tác dụng ấn tượng nhất của glucagon là khả năng gây thoái hóa glycogen trong gan, do đó làm tăng nồng độ glucose máu trong vòng vài phút.
Khoảng kẽ và dịch kẽ: dịch và không gian giữa các tế bào
Khoảng một phần sáu tổng thể tích của cơ thể là không gian giữa các tế bào, chúng được gọi là khoảng kẽ. Các chất lỏng trong các không gian này được gọi là dịch kẽ.
Các yếu tố ruột ức chế bài tiết dịch dạ dày
Dạ dày bài tiết một ít ml dịch vị mỗi giờ trong suốt giai đoạn giữa các lần phân giải thức ăn, khi mà có ít hoặc không có sự tiêu hóa diễn ra ở bất cứ vị trí nào của ruột.
Khuếch tán khí qua màng hô hấp: các yếu tố ảnh hưởng
Hệ số khuếch tán khí phụ thuộc vào khả năng hòa tan của khí trong màng tế bào, và hệ số này tỷ lệ nghịch với trọng lượng phân tử. Tỷ lệ khuếch tán khí trong màng hô hấp là gần như chính xác tương tự như trong nước.
