Tác dụng sinh lý của vitamin D

2020-06-22 11:21 AM

Thụ thể vitamin D có mặt trong hầu hết các tế bào trong cơ thể và nằm chủ yếu trong nhân tế bào. Tương tự như các thụ thể steroid và hormone tuyến giáp, các thụ thể vitamin D có vùng bắt hocmon và vị trí bắt ở DNA.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Dạng hoạt động của vitamin D, 1,25- dihydroxycholecalciferol,có nhiều ảnh hưởng lên ruột, thận, và xương làm tăng hấp thu canxi và phosphate vào dịch ngoại bào và tham gia vào cơ chế điều hòa ngược của những chất này. Thụ thể vitamin D có mặt trong hầu hết các tế bào trong cơ thể và nằm chủ yếu trong nhân tế bào. Tương tự như các thụ thể steroid và hormone tuyến giáp, các thụ thể vitamin D có vùng bắt hocmon (hormonebinding) và vị trí bắt ở DNA (DNA binding domains). Các thụ thể vitamin D tạo thành một phức hợp với thụ thể nội bào, thụ thể retinoid-X, và liên kết phức tạp DNA và kích hoạt phiên mã trong hầu hết các trường hợp.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp,Vitamin D ngăn chặn sự phiên mã. Mặc dù thụ thể của vitamin liên kết với nhiều dạng của cholecalciferol,nhưng ái lực của nó vơi 1,25- dihydroxycholecalciferol là gấp khoảng 1000 lần cho 25 hydroxycholecalciferol, điều này giải thích hoạt tính sinh học tương đối của chúng.

Tác dụng như hocmon của vitaminD giúp tăng hấp thu canxi

1,25-Dihydroxycholecalciferol có chức năng như một loại “hormone” thúc đẩy sự hấp thu canxi của ruột. Nó thúc đẩy sự hấp thu này chủ yếu bằng cách tăng, sau khoảng thời gian 2 ngày, hình thành các calbindin, một protein giúp bắt canxi, trong các tế bào biểu mô ruột. Chức năng của protein này ở diềm bàn chải của các tế bào giúp vận chuyển canxi vào các tế bào chất. Canxi sau đó di chuyển qua basolateral membrane của tế bào bằng cách khuyếch tán thuận lợi. Thốc độ sự hấp thu canxi tỉ lệ thuận với số lượng protein bắt canxi này này. Hơn nữa, protein này vẫn còn trong các tế bào nhiều tuần sau khi 1,25-dihydroxycholecalciferol đã đào thải khỏi cơ thể, do đó kéo dài tác dụng hấp thu canxi các tác dụng khác của 1,25-dihydroxycholecalciferol cũng có thể đóng vai trò trong việc tăng sự hấp thu canxi là sự hình thành (1) một triphosphatase adenosine calciumstimulated ở bờ bàn chải của các tế bào biểu mô và (2) một phosphatase kiềm (alkaline phosphatase) trong các tế bào biểu mô. Những bằng chứng về tác dụng này vẫn chưa được rõ ràng.

Vitamin D hỗ trợ hấp thu phosphate ở ruột

Mặc dù phosphate thường được hấp thụ dễ dàng, dòng phosphate qua biểu mô đường tiêu hóa được tăng cường bởi vitamin D. Người ta tin rằng sự tăng cường này kết quả từ tác dụng trực tiếp của 1,25-dihydroxycholecalciferol, nhưng nó có thể là thứ phát do tác động của hormone này vào sự hấp thu canxi. Do canxi đóng vai trò như một trung gian vận chuyển các phosphate.

Vitamin D làm giảm bài tiết Calcium và Phosphate trong nước tiểu

Vitamin D cũng làm tăng tái hấp thu canxi và phosphate bởi các tế bào biểu mô của ống thận, do đó làm giảm bài tiết các chất ở trong nước tiểu. Thuy nhiên, tác dụng này là yếu và có lẽ không giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết nồng độ các chất này trong dịch ngoại bào.

Ảnh hưởng của vitamin D đối với xương và quan hệ của nó với hoạt động của hocmon tuyến cận giáp

Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong sự tiêu hủy xương và lắng đọng xương. Quá nhiều lượng vitamin D gây tiêu hủy xương. Trong sự vắng mặt của vitamin D, tác dụng gây tiêu hủy xương của PTH sẽ giảm đáng kể hoặc thậm chí bị ngăn lại. Cơ chế tác dụng này của vitamin D chưa được hiểu đầy đủ nhưng được cho là kết quả của các e ảnh hưởng của 1,25 -dihydroxycholecalciferol để tăng vận chuyển canxi qua màng tế bào.

Vitamin D ở số lượng nhỏ giúp tăng canxi hóa xương

Một trong những cách để thúc đẩy canxi hóa là tăng cường hấp thu canxi và phosphate từ ruột.

Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp vắng mặt của sự tăng này, nó vẫn tăng cường khoáng hoá xương. Lại 1 lần nữa, cơ chế của tác dụng này là không rõ ràng, nhưng có lẽ cũng là do khả năng của 1,25-dihydroxycholecalciferol gây vận chuyển các ion canxi qua màng tế bào, nhưng trong trường hợp này, có lẽ theo hướng ngược lại thông qua các màng tế bào tạo xương hoặc hủy xương.

Bài viết cùng chuyên mục

Dinh dưỡng của trẻ sơ sinh

Vấn đề đặc biệt là thường xuyên phải cung cấp đủ dịch cho đứa bé bởi vì tỉ lệ dịch của trẻ sơ sinh là gấp bảy lần so với người lớn, và cung cấp sữa mẹ cần phải có một vài ngày để sản xuất.

Chức năng thính giác của vỏ não: cơ chế thính giác trung ương

Mỗi neuron riêng lẻ trong vỏ não thính giác đáp ứng hẹp hơn nhiều so với neuron trong ốc tai và nhân chuyển tiếp ở thân não. Màng nền gần nền ốc tai được kích thích bởi mọi tần số âm thanh, và trong nhân ốc tai dải âm thanh giống vậy được tìm thấy.

Cảm giác tư thế: cảm giác cảm thụ bản thể

Sự nhận thức về tư thế, gồm cả động và tĩnh, phụ thuộc vào nhận biết về mức độ gập góc của tất cả các khớp trong các mặt phẳng và sự thay đổi tốc độ của chúng.

Block nút xoang: chặn đường truyền tín hiệu điện tim

Tâm thất tự tạo nhịp mới với xung thường có nguồn gốc từ nút nhĩ thất,vì thế nên tần số xuất hiện của phức hệ QRS-T chậm lại nhưng không thay đổi hình dạng.

Lượng sợi actin và myosin chồng lên nhau quyết định tăng lực co bóp khi co cơ

Toàn bộ cơ có một lượng lớn của mô liên kết ở trong nó; ngoài ra, các đơn vị co cơ trong các phần khác nhau của cơ không phải luôn luôn co bóp với cùng số lượng.

Thuốc và vận động viên thể thao

Một vài vận động viên đã được biết đến là chết trong các sự kiện thể thao vì sự tương tác giữa các thuốc đó và norepinephrine, epinephrine được giải phóng bởi hệ thống thần kinh giao cảm trong khi tập luyện.

Điều khiển bài tiết hormone qua cơ chế feedback

Mặc dù nồng độ các hormone trong huyết tương luôn dao động theo từng mức độ kích thích khác nhau trong ngày, nhưng sự xuất hiện của tất cả hormone phải được kiểm soát chặt chẽ.

Tính nhịp điệu của mô dễ bị kích thích phóng điện lặp lại

Các dòng chảy của các ion kali tăng lên mang số lượng lớn của các điện tích dương ra bên ngoài của màng tế bào, để lại một lượng đáng kể ion âm hơn trong tế bào xơ hơn trường hợp khác.

Giai đoạn thể tích và áp lực của tuần hoàn động mạch và tĩnh mạch

Sự duy trì trương lực là một trong những cách hệ tuần hoàn tự động thích nghi trong thời gian khoảng vài phút đến vài giờ nếu lượng máu bị mất sau một xuất huyết nặng.

Sinh lý thần kinh dịch não tủy

Dịch não tủy là một loại dịch ngoại bào đặc biệt lưu thông trong các não thất và trong khoang dưới nhện do các đám rối màng mạch trong các não thất bài tiết.

Tổng quan tác dụng của PTH

PTH kích thích tiêu hủy xương, giải phóng canxi vào dịch ngoại bào, làm tăng tái hấp thu canxi và giảm tái hấp thu phosphate của ống thận, dẫn đến giảm bài tiết canxi và tăng bài tiết phosphate.

Sự thay đổi nồng độ canxi và phosphate sinh lý ở dịch cơ thể không liên quan xương

Ở nồng độ canxi huyết tưong giảm một nửa, các thần kinh cơ ngoại biên trở nên dễ bị kích thích, trở nên co 1 cách tự nhiên,các xung động hình thành,sau đó lan truyền đến các thần kinh cơ ngoại biên gây ra hình ảnh co cơ cơn tetany điển hình.

Phản xạ nhĩ và động mạch phổi điều hòa huyết áp

Ở thành của tâm nhĩ và động mạch phổi có receptor căng gọi là receptor hạ áp, nó giống với thụ thể cảm nhận của động mạch hệ tuần hoàn lớn.

Dẫn truyền các tín hiệu vận động từ vỏ não tới các cơ

Sau khi rời vỏ não, bó này đi qua trụ sau của bao trong (giữa nhân đuôi và nhân bèo sẫm của nhân nền) và sau đó đi xuống thân não, tạo nên bó tháp ở hành não.

Dạng cao nguyên của điện thế hoạt động màng tế bào

Nguyên nhân của cao nguyên điện thế hoạt động màng tế bào là một sự kết hợp của nhiều yếu tố. Đầu tiên, trong cơ tim, hai loại kênh tưởng niệm đến quá trình khử cực.

Đo huyết áp tâm thu và tâm trương trên lâm sàng

Có sự tăng nhẹ trong huyết áp tâm thu thường xảy ra sau tuổi 60. Sự tăng này nguyên nhân do giảm khả năng co giãn hay trở nên cứng hơn, chủ yếu nguyên nhân do xơ vữa.

Sóng hô hấp trong áp suất động mạch

Tăng huyết áp trong giai đoạn sớm của thì thở ra và giảm trong phần còn lại của chu kỳ hô hấp. Khi thở sâu, huyết áp có thể tăng 20mmHg với mỗi chu kỳ hô hấp.

Thùy sau tuyến yên và mối liên quan với vùng dưới đồi

Khi tín hiệu thần kinh được chuyển xuống qua các sợi từ nhân trên thị hay nhân cận não thất, hormone ngay lập tức được tiết ra từ các túi tiết ở các đầu tận thần kinh qua cơ chế bài tiết thông thường của oxytocin và chúng được hấp thụ vào các mao mạch cạnh đó.

Giải phẫu và sinh lý của cơ tim

Những cơ chế đặc biệt trong tim gây ra một chuỗi liên tục duy trì co bóp tim hay được gọi là nhịp tim, truyền điện thế hoạt động khắp cơ tim để tạo ra nhịp đập của tim.

Tốc độ cung cấp máu cho cơ

Sự thay đổi lưu lượng máu trong quá trình co cơ. Lưu lượng tăng và giảm với mỗi cơ. Ở cuối thời kì co cơ, tốc độ máu tăng cao một vài giây và quay trở lại trạng thái bình thường trong vài phút sau đó.

Sinh lý sinh dục nam giới

Mỗi người nam có 2 tinh hoàn, khi trưởng thành mỗi tinh hoàn có kích thước trung bình khoảng 4,5 x 2,5 cm, nặng khoảng 10 - 15 gram.

Dải cảm giác giữa: đặc điểm dẫn truyền và phân tích tín hiệu trong hệ thống cột tủy sau

Hầu như mọi con đường cảm giác, khi bị kích thích, làm phát sinh đồng thời các tín hiệu ức chế bên; những tín hiệu ức chế lan truyền sang các bên của tín hiệu kích thích và các nơ-ron ức chế lân cận.

Quá trình phân tích hình ảnh quan sát: trung khu thần kinh của sự kích thích

Vỏ não thị giác phát hiện không những sự hiện diện của các tia và ranh giới ở những vùng khác nhau của hình ảnh võng mạc mà còn định hướng hướng của mỗi tia và ranh giới.

Điều hòa chức năng cơ thể

Hệ thống thần kinh và hệ thống nội tiết điều chỉnh và phối hợp các chức năng cơ thể. Cùng nhau duy trì sự tăng trưởng, trưởng thành, sinh sản, trao đổi chất và hành vi của con người.

Hoàng thể và giai đoạn hoàng thể của chu kỳ buồng trứng

Ở phụ nữ bình thường, hoàng thể lớn lên đạt đường kính khoảng 1,5 cm sau 7- 8 ngày sau phóng noãn. Sau đó hoàng thể bắt đầu teo đi và cuối cùng mất chức năng chế tiết cũng như màu vàng nhạt- màu của chất béo sau phóng noãn khoảng 12 ngày.